Tôi Nghi Ngờ Ông Ngoại Tôi Là Một Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (p2)

bãi đậu xe

Tôi đã ngừng lại ở đoạn khi tôi đang quyết định mình cần phải làm gì. Tôi đã cân nhắc chuyện chỉ việc nên đợi để ông ngoại tôi lên lầu và gọi tôi dậy để ăn sáng, nhưng suy nghĩ về việc ông đứng chắn mất lối thoát duy nhất làm cho tôi cảm thấy lo ngại. Cuối cùng, tôi cũng gượng dậy và thay đồ, để chìa khoá và bóp vào một bên túi và một con dao gấp trong túi còn lại, rồi đi xuống lầu.

Ông đang ở cạnh lò khi tôi vừa vào đến bếp, và bất chấp nỗi sợ hãi, tôi cảm thấy bụng mình cồn cào khi ngửi thấy mùi trứng, thịt xông khói và cà phê lan toả trong không khí. Không phải vì tôi đủ tin tưởng để ăn những thứ ấy, mà là vì bụng tôi có thể chịu được những vấn đề nhỏ nhặt như là thuốc chuột và chất chống đông. Ông quay lại và gật đầu với tôi khi tôi tiến đến bàn ăn.

“Chào buổi sáng. Ông cũng định lên gọi con dậy rồi. Có thể là con cũng đói rồi?”

“Không, con không đói lắm,” tôi nói dối. “Bụng con sáng nay cảm thấy hơi lạ, nên con nghĩ con cần phải chờ một tí. Mùi thơm quá ông.” Tôi ngồi xuống một ghế mà tôi có thể đối mặt với ông và có thể chạy ra cửa về phía phòng khách nhanh chóng nếu mọi chuyện xảy ra không như mong đợi. Ông khẽ gật đầu và tiếp tục chiên trứng.

“Chà, thật tiếc, nhưng ông sẽ ở đây chờ con nếu một tí nữa con muốn ăn.” Ông đặt chảo trứng lên một cái lò đốt chưa bật lửa và quay mặt về phía tôi, vẻ mặt lo lắng. “Con không nghĩ rằng con đang bị bệnh, phải không?”

Tôi lắc đầu, suy nghĩ đến những lời nói dối và lí do, nhưng cuối cùng tôi quyết định đó là dịp tốt để gợi đến chủ đề về những gì tôi đã thấy đêm trước đó.

“Con… ừm, con cảm thấy hơi lo từ tối qua. Con đã thấy ông trở về.” Ông ngoại tôi gật đầu ngay, nhưng tôi tiếp tục. “Con đã thấy được mọi thứ, không chỉ khi ông trở về từ khu rừng. Con đã thấy người phụ nữ.”

Thoạt đầu, sắc mặt ông ngoại tôi không thay đổi, nhưng sau khi tắt bếp và ngồi xuống bàn, đối diện tôi, tôi thấy một sự pha trộn giữa nỗi lo lắng và u sầu trên gương mặt ông. “Ông cũng nghĩ là con đã thấy rồi. Và ông biết một việc tương tự như thế sẽ trông ra sao. Ông không muốn làm con sợ bằng cách nói thẳng với con về chuyện ấy, và mà phải nói thật, ông đã hy vọng con không thấy phần trước của sự việc. Đây không phải là cách mà con tìm ra sự thật.” Ông xoa miệng và nở một nụ cười đầy lo lắng. “Dù là thế, ông cũng đã lo rằng con sẽ bỏ đi khi ông thức dậy sáng nay hay là sẽ có cảnh sát chờ sẵn bên ngoài. Ông biết con không thể tin ông lúc này, nhưng sẽ rất là có ý nghĩa khi con cho ông một cơ hội để giải thích.”

Tôi gật đầu nhẹ. Ông nói chuyện với một giọng đều và có lý lẽ, nhưng tôi vẫn không ngừng cảm nỗi sợ đang âm ỉ dâng lên trong bụng mình. Một phần của tôi đã mong rằng ông từ chối mọi thứ và thuyết phục tôi đó chỉ là mơ hay chỉ là hiểu lầm. Thay vào đó, ông đã xác nhận lại mọi thứ đã xảy ra. Ông ngoại tôi rất nhanh nhạy và cao hơn tôi gần nửa mét và những ngày tháng qua đã chứng minh một điều rằng tuổi tác không làm ông chậm đi nhiều. Đêm qua ông đã nhấc một người phụ nữ lên mà không cần phải cố gắng nhiều, mang cơ thể không chút sinh lực của cô ấy vào trong bóng tối để…

“Con hãy tập trung. Ông biết điều ấy thật đáng sợ. Ông có thể cho con biết rằng con không cần lí do để sợ ông, nhưng điều ấy có ý nghĩa gì cho bây giờ? Rất ít, ông đoán là thế. Nên hãy để ông giải thích theo cách tốt nhất ông có thể. Những gì ông cần từ con là con hãy lắng nghe mọi chuyện, và nếu cuối cùng sau mọi thứ, con muốn gọi cảnh sát hay bỏ đi hay làm những gì con nghĩ là đúng nhất… ông sẽ hoàn toàn hợp tác. Nhưng ông cần con phải nghe đầu đuôi mọi thứ, vì một vài chi tiết sẽ có thể hơi lạ lúc ban đầu. Được chứ?”

Tôi ngã người tựa vào ghế, đầu tôi nhức inh ỏi. Đây là lúc phải quyết định tôi có cho ông cơ hội hay không. Có nên mạo hiểm tính mạng của mình thêm hơn không. Một mặt, tôi có thể bỏ chạy và gọi cảnh sát. Mặt khác, tôi có thể nghe lời giải thích của ông, và theo lý thuyết, vẫn có thể gọi cảnh sát nếu không thích hoặc không tin những gì ông nói. Tuy là thế…

“Chúng ta đã đặt những cuộn băng keo ở đâu?” Ông nhướng mày lên, tôi nhún vai. “Con sẽ nghe ông kể, nhưng con muốn dán ông vào trong ghế trước khi chúng ta bắt đầu. Con không thể mạo hiểm cho mọi thứ chỉ là một chiêu trò hay ông đột ngột tấn công con khi ông nghĩ mọi thứ không đang đi theo quỹ đạo của ông.” Tôi có thể thấy sự đau đớn trong đôi mắt của ông ngoại, nhưng tôi nói tiếp. “Con rất muốn tin ông, đặt niềm tin vào ông, nhưng ông biết đó là một điều thông minh cần phải được làm từ phía con.”

Ông gật đầu. “Đúng vậy. Ông tự hào về con vì đã nghĩ về điều ấy, chỉ buồn khi mọi thứ thành ra nông nỗi này. Nhưng đó là lỗi của ông, không phải của con. Cuộn băng keo đang ở trong phòng khách, ông nghĩ là ở trên bàn cạnh sofa.”

Đứng dậy thật chậm, tôi đi lùi về phía phòng khách và chộp lấy cuộn băng keo, lo sợ tột độ trong suốt khoảng thời gian năm giây khi không để mắt vào ông. Nhưng ông vẫn ngồi đó chờ tôi khi tôi quay lại, và ông để cho tôi quấn nhiều lớp băng keo vòng ngực và tay, giữ chặt ông vào cái ghế gỗ. Dừng lại một lúc để suy nghĩ, rồi quấn tiếp phần băng keo còn lại quanh mắt cá của ông vào chân ghế để cho chắc.

Việc ấy đã xong, tôi hỏi liệu ông có đủ thoải mái không. Khi ông trả lời có, tôi ngồi xuống đối diện ông, tay tôi ướt đẫm mồ hôi và hơi run khi tôi cố mỉm cười trấn an ông. “Con xin lỗi lần nữa. Nhưng con bây giờ đã sẵn sàng để nghe mọi thứ ông kể rồi.”

Ông ngoại tôi nhìn xa xăm một lúc rồi tập trung đôi mắt xanh về phía tôi. “Mẹ con kể chuyện về vợ ta rồi, bà ngoại con Rebecca, đã mất trong đụng xe. Một người lái xe say xỉn, đúng không?”

Tôi gật đầu. “Đúng, mẹ kể rằng bà đang trên đường đến thăm ông ở bệnh viện. Ông đang chữa trị cho một bệnh nhân nhiều giờ liền và bà đã mang cơm tối cho ông.”

Sự căm phẫn u ám hiện lên trên gương mặt ông ngoại tôi, rồi tan biến khi ông lắc đầu. “Phần sau thì đúng rồi. Ông đang trị thương cho một cô bé sau một vụ tai nạn đi săn từ buổi trưa ấy. Cô bé ấy đã sống sót. Nhưng cô gái ngọt ngào của ông, bà ngoại của con, không chết vì một tên say xỉn. Bà đã bị bắt cóc khi ra khỏi xe ở bên ngoài bệnh viện. Bị phanh thây một cách tàn nhẫn, và những phần còn lại của bà được tìm thấy ở một cánh đồng cách bệnh viện mười dặm.”

Giọng của ông trở nên thô ráp và rạn nứt đầy cảm xúc khi ông nói. “Thoạt đầu ông còn không nghĩ có chuyện chẳng lành xảy ra. Nhưng khi có một ai đó đã tìm thấy đĩa thức ăn được gói lại bên ngoài bãi đậu xe, đã bị vỡ vì rơi xuống đất. Họ nhận ra ngay đó là xe của bà rồi họ đã báo cho ông hay. Ông vừa mới hoàn thành ca phẫu thuật một tiếng trước, nhưng ca của ông vẫn còn tận năm tiếng. Nên ông đã chợp mắt, nghĩ rằng bà sẽ đánh thức ông dậy khi đến nơi. Thay vào đó, một người trong ban điều hành, hỏi rằng ông có gặp vợ ông tối đó không.” Ông ngoại đặt bàn tay lên bàn, những ngón tay dài và đều ngay dù ở độ tuổi của ông. Nhìn chằm chằm vào chúng, ông tiếp tục.

Bà ngoại con là một người phụ nữ thông minh, một người phụ nữ hiền lành. Đúng rồi, mọi thứ hồi đó an toàn hơn bây giờ nhiều, nhưng thế không có nghĩa là không ai bị thương hay bị sát hại. Ngay cả trong một thị trấn nơi như ông và bà đã sống, điều đấy có thể xảy ra. Nhưng bà của con không có thù oán với ai, và bà luôn cẩn thận khi ra khỏi nhà. Điểm chính mà ông muốn nói là không ai có thể dễ tiếp cận và bắt nạt bà.

Ban đầu cảnh sát nói điều ấy có thể chỉ là một sự hiểu lầm hay bà có thể đã muốn bỏ nhà đi, nghe thật ngu ngốc. Ông dành cả đêm để tìm bà, lo sợ và như người sắp bị điên. Đến sáng hôm sau cảnh sát bắt đầu đi tìm cùng ông. Gần đến trưa thì họ tìm thấy cơ thể của bà trên cánh đồng.

Ông đã phạm sai lầm khi đã đến hiện trường. Ông đã tự nhủ với mình rằng ông đã quen thuộc với máu, với mọi thứ được phơi bày ra từ cơ thể người, và ông nợ bà để biết được bà mất như thế nào. Điều ấy quá sức tưởng tượng của ông.  Tay trái và chân phải bị đứt lìa hoàn toàn, và phần trên cơ thể bị cắt nhỏ thành từng mảnh đến nỗi… không còn nhìn ra hình hài của một con người nữa. Và vẫn đỡ hơn nhiều vì điều ấy có vẻ như không thực. Nhưng rồi ông thấy mái tóc dài, nâu sáng, của bà.

Ông đã luôn yêu làn tóc của bà rất nhiều, cả khi nó có gắn liền với gương mặt bị tàn phá tan nát của bà, ông nhận ra ngay dù ở bất cứ đâu. Tóc bà sạch sẽ đáng kể so với những phần còn lại, như thể ai đó hay một thức gì đó đã rất cẩn thận để không làm bẩn mái tóc xinh đẹp ấy. Suy nghĩ ấy làm ông tan vỡ. Ông không nhớ gì nhiều về những ngày sau đó. Ông biết mình đã ở đám tang, nhưng ông không thể kể rõ cho con biết được.

Đến lúc ông có thể định thần trở lại, ông đang ngồi ở nhà với vợ chồng anh trai của ông. Họ đã cố dành thời gian ở bên ông. Chúng ta lúc đấy đang cùng xem TV, ông nghĩ là thế. Ông đã muốn hét vào mặt họ, hét lên để cho họ hiểu được mọi cố gắng của họ là vô ích, rằng cuộc đời của ông đã kết thúc, rằng mọi thứ đã kết thúc, vậy tại sao họ lại cố kéo dài nó như thế? Thay vào đó, ông chỉ có thể nói với họ lời cảm kích vì sự giúp đỡ và quan tâm từ họ, nhưng ông cũng hiểu rằng họ cần phải về nhà và ông cần thời gian riêng tư. Họ mất không lâu để chuẩn bị rồi ra về.

Ông dành cả ngày sau đó hay gần như thế cân nhắc về nhiều phương pháp tự vẫn. Ông thật không còn thiết sống trên cõi đời này nếu không có bà ngoại con. Ông tin vào Chúa và ông nghĩ rằng tự vẫn là một điều nhục nhã và là một tội ác khi được thực hiện vì lí do ích kỉ như vậy, nhưng ông đã đi đến mức ông không còn muốn quan tâm. Ông không quan tâm nếu ông có bị đày xuống Địa Ngục vì điều đó. Cảm thấy mình xứng đáng bị như thế vì đã để chuyện này xảy ra đến bà. Nhưng điều này đã dẫn ông vào con đường chìm đắm vào những gì đã xảy ra đến bà và những gì đã gây ra nó. Ai đã gây ra nó.

Ông gạt đi ý tưởng uống thuốc và dây thừng và tự sát bằng súng, ông đi tắm rồi cạo râu, rồi ông đến đồn cảnh sát. Nhiều tuần sau đó ông không ngừng quấy rối và làm phiền họ, thúc đẩy họ làm nhiều việc hơn trong khi hiểu rằng họ có thể không làm được gì thêm nữa. Họ đã cố tìm nhân chứng, nhưng không thể. Họ đã tìm những manh mối về phương thức của vụ tấn công, và chỉ có thể kết luận được lí do thương tích gây ra “bởi vật có răng cưa và cùn không xác định được.” Ở bệnh viện không có máy camera an ninh cho đến tận ba năm sau, và lúc bấy giờ là thời chưa có điện thoại di động để có thể định vị được.

Sau khi doạ nạt họ với lời đe doạ sẽ kiện, ông đã lấy được những báo cáo và hình ảnh từ họ. Ông đọc hết tất cả nhưng vẫn không tìm được nhiều ghi chép. Bãi đậu xe đã được tráng bằng xi măng nên không có dấu vết để truy lùng theo, và không có vết bánh xe hay dấu chân được tìm thấy tại hiện trường nơi bà bị sát hại. Có một chi tiết tại bãi đậu xe nổi bật đối với ông, nhưng ông ban đầu không chắc chắn cho lắm. Sau hai ngày xem kĩ lại mọi thứ, ông đã ngộ ra.

Bãi đậu xe bệnh viện có phân khu dành cho bác sĩ và nhân viên phẫu thuật được ngăn bằng một thanh sắt ngang đóng mở bằng động cơ và một bàn phím số. Rebecca có mã số, nên bà đã đậu xe ở nơi bà bị bắt cóc. Bãi đậu xe ấy ở phần rìa của bệnh viện, ngoài đường lớn không thấy được và không có bất kì con đường hoặc lối đi nào của bệnh viện có thể khiến nó trở thành lối đi cho người qua đường bình thường. Khả năng một người vô tình nhìn thấy bà khi đi ngang qua hay rình mò ở một bãi đậu xe nhỏ vắng vẻ cho nhiều giờ để có thể tóm được một ai đó là bao nhiêu chứ? Ông tin rằng đó là điều không thể. Nhưng nghĩ kĩ lại, ông biết rằng cũng có khả năng rằng ông sai, nhưng khi ông cần một lời giải thích, ông quyết định tập trung vào một ai đó đang làm việc trong bệnh viện và, hoặc được vào bãi đậu xe như vợ ông là hành động tốt nhất.

Những lời khiếu nại về vụ điều tra cái chết của Rebecca, ông có lẽ đã không thể tiến xa hơn được nếu không có chúng. Một trong những thám tử đã tìm thấy một mảng mô bên dưới móng tay và đã gửi đi xét nghiệm để đối chiếu. Hiểu rằng thời 1983, và xét nghiệm DNA là hoàn toàn mới. Nó thậm chí không phải là một giải pháp được sử dụng tại các phòng thí nghiệm tội phạm của tiểu bang thời ấy và khả năng mẫu chứng cứ ấy được sử dụng là rất nhỏ.

Nhưng ông vẫn khởi đơn kiện để lấy lại mẫu chứng cứ để có thể gửi nó đến Daniel Church, một người bạn học ở đại học y, người đã làm việc tại một phòng xét nghiệm DNA hàng đầu quốc gia. Ông ta không thể xét nghiệm công khai chính thức cho ông được, nhưng ông ta hiểu tình cảnh của ông và đã đồng ý giúp đỡ càng nhiều càng tốt trong một phạm trù không chính thức. Thứ duy nhất ông ta cần là một mẫu đối chiếu từ một nghi phạm.

Thật may mắn, đó là phần dễ. Luật của bệnh viện yêu cầu mọi bác sĩ phẫu thuật và nhân viên đều phải thử máu mỗi sáu tháng vì hai lí do, để kiểm tra chất kích thích và cũng như là một cơ chế sàn lọc bất kì bệnh truyền nhiễm tiềm ẩn nào. Sau khi xét nghiệm, phần còn lại của những mẫu xét nghiệm ấy được lưu trữ lại cho kì thử máu tiếp theo. Những xét nghiệm ấy không được thực hiện cùng một lượt được, dĩ nhiên, nhưng trong thời điểm bấy giờ, trong tủ lạnh của phòng thí nghiệm huyết thanh đang có hai mươi ba mẫu.

Ông đã lấy một ít từ mỗi mẫu rồi gửi cho Church. Sau hai ngày, ông nhận được cuộc gọi từ ông ta, giọng điệu trầm trọng. Ông ta đã hỏi làm sao ông có được nhiều mẫu trong thời gian ngắn như thế, ông đang kéo ông ta vào chuyện gì. Ông đã trấn an rằng ông không cố lôi kéo ông vào bất kì điều gì. Nhiều nhất thì chỉ là một vài xét nghiệm DNA, mà không cần biết danh tính hay lí do. Và nếu có ai đó hỏi ông, ông sẽ trả lời chưa từng gặp ông ta từ mười lăm năm trước sau ngày tốt nghiệp. Ông có thể nhận thấy rằng ông ta vẫn còn lo lắng, nhưng sau một hồi lâu im lặng, ông ta đã đồng ý giúp ông thử nghiệm.

Năm tuần tiếp theo thật kinh khủng. Việc xét nghiệm DNA vào thời điểm đó chậm hơn nhiều, và ông hiểu ông ta phải đi chậm hơn bình thường vì phải làm điều ấy một cách bí mật. Dù thế, mỗi ngày ông đều chờ đợi tiếng chuông reo điện thoại, và cuối cùng, khi điện thoại reo, ông khó có thể nghe được giọng của Church qua tiếng đập mạnh từ tim của ông. Ông phải hỏi lại những gì ông ta đã nói.

“Mẫu đầu tiên anh gửi cho tôi trùng khớp với mẫu số 17. Đó là từ người ấy hoặc là người song sinh của họ.”

Ông đã cảm ơn ông ta và gác máy. Ông đã gửi những mẫu thử nghiệm theo số, thay vì cùng với tên, nhưng ông thuộc nằm lòng ai là ai cho đến thời điểm ấy. Mẫu số 17 là từ một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình tại bệnh viện, Marcus Salk. Hắn là một người đàn ông trung niên hơi béo, luôn thích chọc cười người khá và nổi tiếng là một bác sĩ giỏi. Ông không thân với hắn, nhưng ông vẫn luôn hoà đồng với hắn. Tại sao hắn lại làm thế?

Ham muốn đầu tiên thúc đẩy ông phải tra tấn hắn cho đến khi hắn khai ra lí do. Ông có thể cảm nhận được sự tức giận đang dâng trào trong lúc thông tin ấy ngấm vào, tâm trí ông đang chạy đua để gợi nhớ lại những lần tương tác nào giữa ông và hắn, bất kì điều gì ông biết được về hắn ta. Có thể hắn đã bắt đầu làm việc trong bệnh viện từ năm năm trước, độc thân, có thể có nuôi một con mèo? Ông nhận ra mình biết ít đến thế nào, và ông cần phải biết thêm trước khi bắt đầu làm tổn thương sai người hay vô tình để trao cho một kẻ ác một phương tiện để trốn thoát.

Đó là khi ông bắt đầu theo dõi Marcus Salk.

Phần 3

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *