Tôi Nhận Việc Canh Gác Nghĩa Trang Ca Tối. Tôi Đã Suýt Chết Trong Đêm Đầu Tiên

nghĩa trang

Tôi đã tốt nghiệp trung học trong mùa xuân năm 2003 và nhận được học bổng ở một trường cao đẳng cộng đồng ở gần nhà. Tôi quyết định tìm một công việc hè để kiếm thêm tiền trước khi bắt đầu năm nhất trong mùa thu sau đó. Khi đó, một người bạn của bố tôi làm việc trông coi một nghĩa trang địa phương nhưng đã xin nghỉ việc vài tháng để có chuẩn bị cho một cuộc phẫu thuật lưng mà ông đã lên lịch.

Duke, bạn của bố tôi, nói con ông ta Bryan, cũng trạc tuổi tôi, đã tình nguyện nhận công việc trông coi nghĩa trang ca sáng, nhưng nếu tôi có hứng thú, ông cũng có một việc khác mà tôi có thể làm. Tôi hỏi đó là việc gì. Và ông đã nói tôi biết.

Người gác đêm.

Rõ ràng thì có nhiều nghĩa trang khác trong vùng bị phá hoại (có lẽ là do bọn thiếu niên) và Duke cần một người để canh gác nghĩa trang giữa 8 P.M, khi nghĩa trang đóng cửa, và 5 A.M, khi con trai Bryan của ông có mặt. Duke nói tôi biết rằng đây không phải là một vị trí “chính thức của quận,” nhưng ông sẵn sàng bỏ tiền túi của mình để trả cho tôi.

Tôi đã hơi ngần ngại khi nhận công việc này. Tôi không phải dạng người dễ bị dọa, nhưng suy nghĩ cho việc phải ở một mình trong một khu nghĩa trang bị bỏ hoang trong suốt chín giờ liền đã khiến tôi cảm thấy khá rợn người. Nhưng tôi đã không có việc gì khác gọi trong mùa hè ấy, và nghe lương bổng cũng khá hơn so với việc lật thịt bánh burger ở MacDonald’s, thế nên tôi đã nhún vai và nói chắc rồi, sao lại không.

Nghĩa trang ấy nơi tôi làm việc nằm ở phần rìa của thị trấn nơi tôi sinh sống, ở miền quê, khắp ba phía đều được bao quanh bởi những thửa đất ruộng rộng lớn. Phía sau của nghĩa trang giáp nối với một khu rừng nhỏ. Nghĩa trang khá lớn và ngổn ngang, có thể là sáu mẫu Anh, và là một trong những nghĩa trang lâu đời nhất trong vùng, với những bia mộ cổ đến tận đầu những năm 1800.

Tôi lái xe đến đấy trong một buổi chiều muộn ấm đầu tháng sáu cho ca làm việc đầu tiên của mình, và đã được chào đón bởi Duke, đang chờ tôi ở gần cửa vào. Ông đã dành một giờ sau đó để đưa tôi đi vòng quanh khu đất và giải thích những việc tôi cần làm. Cơ bản thì, sau mỗi giờ tôi phải thực hiện một chuyến đi tuần khắp nghĩa trang và ghi chép lại bất kỳ “hoạt động bất thường” nào (bất kể đó là gì) mà tôi gặp. Và nếu tôi có thấy ai vào trái phép, tôi không được đụng độ với họ, thay vào đó tôi phải gọi cảnh sát.

Ông dẫn tôi vào một nhà kho nhỏ ở bên cạnh đó gần cửa chính. Nơi ấy chứa đầy dụng cụ và trang bị làm vườn. Có một chiếc bàn nhỏ với một cái ghế và một quyển sổ dành cho tôi để “ghi chép báo cáo” và một đèn pin lớn, dạng dài và cần đến tận bốn pin D để hoạt động.

Ngay sau khi Duke đưa tôi đi vòng quanh, sắc mặt ông trở nên nghiêm túc. Ông nói rằng có một thứ mà tôi cần phải xem qua, rồi kéo ra một xâu chìa khóa từ trong túi mình. Tôi quan sát một cách tò mò khi ông mở khóa một cái tủ bằng sắt ở cạnh tường rồi mở nó ra.

Tôi đã hớp một hơi đầy vẻ kinh ngạc.

Bên trong là một khẩu súng shotgun nạp đạn kiểu bơm khổ mười hai và một hộp đạn.

Duke giữ cửa tủ mở trong vài giây để cho tôi thấy khẩu súng, rồi đóng lại và khóa lại. Ông giải thích rằng khẩu súng kia chỉ dành cho “trường hợp cực khẩn cấp” và rằng ông không muốn tôi chạm vào nó trừ phi tính mạng tôi đang gặp nguy hiểm. Ông tiếp tục nói rằng ta sẽ không biết ai có thể xuất hiện trong nghĩa trang khi trời tối. Thường thì là những chuyện vô hại – những đứa trẻ đang chán chường muốn tìm một nơi để nhậu nhẹt và đùa giỡn. Nhưng những nghĩa trang cũng thường là nơi tụ tập của những kẻ lập dị. Những cuồng tín satan, bọn nghiện ngập, và đôi khi còn có cả những kẻ đào mộ.

Nhìn thấy nét lo âu trên gương mặt tôi, ông đã mỉm cười trấn an và nói rằng sẽ rất hiếm hoi khi gặp phải những thể loại người như thế khi đang làm việc, nhưng ông muốn tôi biết về khẩu súng để “phòng hờ.” Rồi ông tháo chìa khóa tủ từ xâu chìa khóa và đưa nó cho tôi.

Lúc đó thì buổi chiều muộn đã nhường chỗ cho bóng tối của màn đêm khi mặt trời bắt đầu lặn dần. Duke đã phần lớn cho tôi biết và thấy mọi thứ tôi cần biết, và như thế chúng tôi bắt tay chào nhau rồi ông ra về. Tôi nhìn ông bước lên chiếc xe bán tải của mình và lái về qua cánh cổng nghĩa trang và ra đường lớn, khuất xa khỏi tầm mắt.

Tôi đột nhiên nhận ra rằng mình đang ở một mình trong một khu nghĩa trang hoang vu ở nhiều dặm cách bất kỳ nơi nào, và trời thì đang tối dần. Tôi rùng mình. Tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay của mình và nhận ra đã gần 8 P.M., đến lúc bắt đầu ca trực đầu tiên của mình. Tôi đoán có thể mình vẫn còn một giờ trời sáng.

Tôi đã thực hiện vòng tuần tra quanh khu nghĩa trang đầu tiên của mình, bắt đầu từ khu trước (khu mới) và kết thúc tại khu bên hông (khu cũ). Khu vực đó của nghĩa trang đặc biệt rùng rợn. Ở đấy có nhiều bia mộ nứt, nghiêng và bào mòn bởi những những yếu tố tự nhiên. Một vài bia mộ trong khu đó trông như bị lõm. Trước đó, Duke đã giải thích trong chuyến tham quan quanh nghĩa trang rằng đó là bởi phần đất ở trên nắp những quan tài gỗ mục nát xụp xuống. Một lần nữa, tôi lại rùng mình khi nghĩ đến điều ấy.

Mặt sau của nghĩa trang kết thúc tại một bờ kè dốc xuống một con lạch cạn với rừng cây bắt đầu ở phía bên kia. Dưới chân bờ kè là một đống những bó và vòng hoa từ những ngôi mộ. Tôi nghĩ Duke chắc là đã đổ chúng ở đó sau khi chúng bắt đầu khô và tan rã.

Toàn bộ chuyến tuần tra của tôi chỉ mất mười lăm phút thế nên tôi đã trở về nhà kho để giết thời gian cho đến chuyến đi tuần tiếp theo.

Tôi gác chân lên bàn và lấy ra một quyển sách Stephen King bìa giấy mà tôi đã mang theo để cho qua thời gian (các bạn phải nhớ rằng đó là năm 2003, trước khi Smartphone ra đời).

Tôi đã đọc sách, bị lôi cuốn bởi câu chuyện của gia đình Torrance trong Khách Sạn Overlook rùng rợn, và trước khi kịp nhận ra, thì đồng hồ đã điểm 9 giờ tối. Tôi đặt quyển sách xuống, cầm đèn pin của mình lên, rồi tiến ra ngoài để đi tuần tra.

Lúc này trời đã gần như tối hoàn toàn và tôi có thể nghe tiếng dế kêu. Tôi tản bộ trong nghĩa trang, lại bắt đầu từ khu trước và vòng ra khu sau, thận trọng hướng đèn pin của tôi ra xung quanh.

Tôi đã vừa đến được phần cuối của nghĩa trang khi một điều gì đó xảy ra. Tôi dừng lại, lắng nghe, và đột nhiên trở nên cảnh giác. Tôi đã nghe thấy tiếng gì đó. Tôi nghiêng đầu cố lắng nghe. Tôi đã nghe thấy tiếng cào. Nhẹ, chậm, và đều. Tôi không biết được nó phát ra từ đâu. Tôi rọi đèn pin vòng quanh nhưng không thể thấy gì bất thường. Cũng bất ngờ như cách nó phát ra, nó đã ngừng lại. Tôi bỏ qua, nghĩ rằng đó chỉ là một con thú nào đó – một con gấu chồn hay chồn túi gì đó – đang cào lên gốc cây gần đó.

Sau khi hoàn thành vòng tuần tra của mình, tôi trở lại nhà kho và tiếp tục đọc sách.

Tôi đã dành gần nửa giờ sau đó để đọc sách và đã đến đoạn nhóc Danny thấy người phụ nữ già với cơ thể mục rửa trần truồn trong bồn tắm thì tôi nghe có tiếng gì đó ở bên ngoài khiến tôi giật bắn người đứng dậy làm ngã ghế ra sau.

Tiếng bước chân.

Tiếng bước chân chậm, nặng nề, khập khiễng nghe như chúng đang đi vòng quanh nhà kho.

Tim tôi bắt đầu đập nhanh. Tôi đứng đó, bị đông cứng bởi nỗi sợ hãi đột ngột. Khi đó trời đã tối và nghĩa trang đã đóng cửa. Không thể có ai ở ngoài này được. Tôi nhớ rằng Duke có nói về những đứa thiếu niên hay tụ tập. Tôi chờ đợi, đến nỗi gần như không dám thở, nhịp mạch của tôi đập nhanh khi tôi đang lắng nghe. Tiếng bước chân đó có vẻ như đã đi vòng nhà kho hai ba lần, rồi dần phai đi xa dần. Sự yên tĩnh lại tiếp tục.

Tôi chờ đó trong nhiều phút, quá sợ để ra ngoài điều tra. Tôi liếc nhìn tủ sắt với khẩu súng shotgun bên trong, nhưng nhớ Duke đã nói rằng không được chạm vào nó trừ phi tôi gặp nguy hiểm.

Có lẽ đó chỉ là bọn trẻ con đến để tụ tập uống rượu, hay một cặp đôi yêu nhau nào đó đến để tìm nơi để mò mẫm nhau.

Nhưng nghĩa trang này ở cách thị trấn đến tận năm dặm đường và tôi đã không nghe thấy tiếng xe ở bên ngoài.

Tôi tiếp tục đứng đó tận thêm năm phút, sợ hãi và thiếu quyết đoán. Cuối cùng tôi tự nhủ bản thân mình rằng tôi đang là một thằng nhát cáy và cần phải đàn ông lên. Việc bảo vệ nghĩa trang khỏi những kẻ xâm nhập, suy cho cùng, là nghĩa vụ của tôi. Có lẽ đó cũng chỉ là một gã già say xỉn vô hại nào đó hay một kẻ lang thang đang tìm nơi để ngủ qua đêm thôi.

Tôi đã tập hợp dũng khí của mình, cầm đèn pin lên, rồi mở cửa và bước ra ngoài.

Trời bây giờ đã hoàn toàn tối, và mọi thứ xung quanh tối đen như mực. Những áng mây đen dày đặt che khuất mặt trăng và nguồn sáng duy nhất là đèn pin của tôi. Thật thận trọng, tôi bắt đầu chuyến đi tuần quanh nghĩa trang. Không có bất kỳ dấu hiệu đột nhập nào và không có gì khác thường… nhưng tôi vẫn cảm giác được có gì đó rất sai. Rất khác biệt.

Mất một vài phút sau tôi mới nhận ra. Mọi thứ rất yên ắng. Quá yên ắng. Yên ắng đến chết người. Dế không kêu. Một bầu không khí yên tĩnh bao trùm lên nghĩa trang như một cái chăn đắp. Âm thanh duy nhất còn lại là tiếng thở của tôi. Bên cạnh đó, mọi thứ im lặng đến vãi l… chà chà, im lặng đến vãi linh hồn.

Tôi có cảm giác như mình đang bị theo dõi. Tôi đã đọc biểu cảm sến súa rập khuôn ấy trong hàng ngàn những câu chuyện kinh dị và chưa bao giờ tin nó là thật cho đến thời điểm đó, nhưng trong khoảnh khắc ấy, tôi ở một mình trong đêm, trong nghĩa trang yên tĩnh không tự nhiên đó, tôi đã tin nó là thật. Cảm giác như tôi có thể cảm nhận một tá những đôi mắt săn mồi đổ dồn lên mình, quan sát từng hành động của tôi, mãnh liệt đến nỗi nó gần như là cảm giác thể chất vậy. Tôi sợ khiếp vía.

Tôi đã dừng lại trên lộ trình của mình một cách đột ngột, cảm nhận, nghiêng đầu. Tôi đã nghe thấy gì đó. Đó là gì nhỉ? Tôi lắng nghe. Thật khẽ, tôi nghe thấy đó chính là tiếng cào nhẹ, đều từ trước. Tôi đảo nhìn xung quanh, cố định vị nguồn phát ra tiếng động đó. Có vẻ như nó phát ra từ trước mặt ở hướng bên phải của tôi, và có vẻ như trở nên càng lớn hơn khi tôi càng đến gần hơn.

Đó là khu mới của nghĩa trang, khu vẫn còn được sử dụng. Tôi dừng lại ở trước một phần mộ nơi có vẻ rằng âm thanh đó phát ra lớn nhất. Tôi rọi đèn pin của mình lên phần bia mộ bằng đá hoa cương. Đây là phần mộ của một người phụ nữ lớn tuổi đã qua đời vài tuần trước. Phần đất trước bia vẫn còn nâu và ít cỏ sau khi bà được chôn cất.

Tôi đã lắng nghe… rồi nhận ra âm thanh đó phát ra từ dưới đất.

Phía dưới phần mộ của bà.

Tôi cảm nhận một cơn lạnh như nước đá từ đáy ruột tràn lên tim mình. Tôi cố tự trấn an bản thân rằng đó có thể chỉ là một con rắn hay một con vật nào đó sống dưới lòng đất đang đào mà thôi.

Và rồi một điều đã xảy ra.

Tôi cảm nhận được sự rung chuyển và nghe tiếng đất cát rơi. Động đất, tôi thoáng nghĩ, nhưng nó dường như chỉ là từ phần mộ mới ở trước mặt tôi – không nơi nào khác. Rồi một phần đất trống hình chữ nhật sụp xuống, gần như chuyển động chậm, trông giống như phần mái của một toa thang máy đang hạ xuống trục của nó. Điều đó xảy ra không quá năm giây.

Tôi đứng đó, sững người vì quá sốc, vài giây khi xuất hiện một hố trũng sâu đen ngòm kia đó là một mộ phần còn nguyên vẹn. Đã mất một lúc để não tôi kịp xử lý những gì tôi vừa chứng kiến.

Tâm trí tôi hoảng loạn, thét lên kêu gọi tôi bỏ chạy, nhưng cơ thể tôi đã không nghe theo. Dù tôi sợ, nhưng tôi cũng cảm thấy tò mò không kém. Một phần trong tôi muốn được thấy. Có vẻ như không theo chủ ý, chân tôi bước đến phần mép của phần mộ bị trũng xuống và tôi rọi đèn xuống.

Ánh đèn chiếu vào phần giữa của một quan tài đang nằm nghiêng ở dưới đáy của một cái hố – một cái hố sâu ít nhất mười lăm feet – sâu hơn một phần mộ bình thường; trông nó giống một giếng mỏ hơn là mộ – với bụi đất ở khắp xung quanh nó. Và khi tôi đang nhìn, quan tài kia bắt đầu dịch chuyển. Trượt xuống phần đáy hố từng inch một, phát ra tiếng sột soạt khi ma sát trên đất.

Tôi lia tia đèn pin đến phần cuối của quan tài… và thứ tôi thấy khi đó vẫn còn ám ảnh trong những giấc mơ của tôi cho đến ngày nay.

Ở đó có một cái lỗ đen, lối vào của một đường hầm, ở bên hông của cái hố… và có hai cánh tay ốm, xám với những ngón tay dài không tự nhiên và những cái móng đen, dài như móng vuốt đang nhô ra từ cái lỗ, nắm lấy phần cuối quan tài, kéo lê nó vào trong đường hầm kia từng chút, từng chút.

Đó là khi tôi quay đầu bỏ chạy về nhà kho, thở gấp trong sự khiếp hãi. Tôi đưa tay vào túi để tìm điện thoại gọi cảnh sát… nhưng nó không ở đó. Chắc là tôi đã quên mất nó trên bàn trong nhà kho.

Khi trở lại nhà kho, bước vào cửa… tôi đông cứng người.

Bên trong nhà kho hoàn toàn bị xáo trộn. Mọi thứ đã bị lật tung. Đồ nghề đang nằm rải rác khắp sàn nhà, bàn và ghế bị hất ngã, quyển sách của tôi bị xé nát tan tành… và điện thoại của tôi đã bị đập nát. Đã có ai đó vào nhà khi khi tôi ra ngoài… hay đã có một thứ gì đó.

Khi tôi đang sững người tiếp nhận cảnh tượng phá hoại đó… thì tôi nghe thấy tiếng động từ phía sau mình. Tiếng bước chân khập khiễng nặng nề mà tôi đã nghe trước đó. Tôi quay người lại. Tôi như bị thụt mất tủi tác chỉ trong vài giây, giảm mạnh đến trạng thái kinh hoàng phi thực tế, gần như kỳ lạ của một đứa trẻ đang bị cơn ác mộng kìm kẹp.

Một thứ gì đó đang đứng trước ngưỡng cửa, chỉ cách nhà kho vài bước. Tuy chỉ là một hình bóng, chỉ là một cái bóng, nhưng tôi biết nó cao, và gầy, với hai cánh tay ốm, dài không tự nhiên gần chạm được đến bàn chân. Nó có đôi mắt đỏ đang lấp lánh trong bóng tối, như than hồng. Đôi mắt ấy đang nhìn tôi chằm chằm.

Chúng tôi đã đứng đó và thời gian dường như đã ngưng động đến vĩnh hằng, nhìn nhau… và rồi hình bóng kia đã tiến một bước về phía cửa.

Tôi phóng ra phía trước, đóng sầm cửa và vặn khóa. Có một tiếng rít chói tai không tự nhiên phát ra từ bên ngoài – nghe như tiếng động vật hơn tiếng người. Sinh vật đó bắt đầu đập mạnh một cách hoang dại vào cửa nhà kho.

Tôi giật mình khi có một thứ gì đó khác tông vào tường ở sau nhà kho. Tôi nghe thấy tiếng móng vuốt đang cào lên gỗ như thể có thứ gì đó đang cố đào lên bức tường để vào. Một thứ gì đó đang tông mình vào bức tường bên hông nhà kho. Chúng có nhiều hơn một… và chúng đang cố vào nhà kho cùng lúc.

Cố vào trong để tìm tôi.

Đó là khi tôi nhớ đến khẩu súng.

Tôi nhìn vào tủ sắt, vẫn còn đó nhưng bây giờ đang nằm nghiêng tựa vào góc nhà. Tôi hoảng loạn tìm kiếm các túi quần của mình cho đến khi chạm được chìa khóa mà Duke đã đưa cho tôi. Tay tôi run lẩy bẩy mở khóa tủ và nắm lấy khẩu súng, hy vọng rằng nó đã được lên đạn – cả đời tôi chưa bao giờ chạm vào một cây súng và tôi thật sự không biết cách nạp đạn, và dù gì thì tôi cũng không còn nhiều thời gian nữa.

Tôi gà mờ mò mẫm nó vài giây cho đến khi tìm được cách đóng chốt an toàn. Tiếng đập liên hồi và tiếng rít đang bao quanh tôi. Nghe có vẻ như căn nhà kho nhỏ đã bị bao vây tứ phía.

Tôi bơm khẩu shotgun như người ta đã làm trong phim, rồi đôi tây run rẩy của tôi nâng khẩu súng lên cửa, nghiến răng, rồi bóp cò.

Tiếng súng nổ lớn hơn bất cứ thứ gì tôi có thể tưởng tượng, và cú giật của súng mạnh đến nỗi nó gần như có thể đẩy tôi bật ngửa ra sau. Sáng hôm sau tôi đã thấy trên vai phải mình có một vết bầm nơi cán súng đã đập vào.

Một lỗ rách to bằng nắm tay xuất hiện trên cánh cửa.

Trong tích tắc sau khi tôi bóp cò khẩu súng, tôi nghĩ mình đã nghe thấy một tiếng rít lên đau đớn ở bên ngoài. Rồi sau đó tôi không thể nghe gì khác ngoài tiếng ù tai. Trong khoảng vài giây, tôi còn tưởng mình đã điếc vì tiếng súng nổ. Rồi dần dần thính giác của tôi trở lại. Tôi biết là thế bởi tôi đã có thể nghe được tiếng thở khô khan của mình. Và ngoài ra… yên tĩnh. Tiếng đập và tiếng rít đã không còn nữa.

Tôi lắng nghe một cách đầy chủ ý, tim tôi đập thình thịch, nhưng không thể nghe thấy gì. Rồi thật thận trong, vẫn ghì chặt khẩu súng, tôi khẽ bước đến cánh cửa nhà kho nát tươm, mở khóa, rồi mở toang ra, nâng súng lên lại.

Không có gì ngoài màn đêm.

Tôi bỏ chạy khỏi nhà kho, chạy hết sức đến xe của mình, nhảy vào trong xe, khóa hết các cửa, nổ máy rồi chuồn khỏi nơi ấy, chân đạp hết mức lên bàn đạp ga. Tôi lái nhanh trên đường vào, bốn bánh xe của tôi rít lên, khiến sỏi đá bay tứ tung. Tôi tông thẳng qua cổng, và rồi lái xe lên đường cao tốc để về nhà.

Nhưng chỉ khi tôi vừa lái ra khỏi cổng, tôi đã thấy – hay nghĩ mình đã thấy – một thứ cuối cùng trong kính chiếu hậu của xe.

Nhiều đôi mắt đỏ trong bóng tôi ở phía sau xe tôi.

****

Điện thoại của tôi đã bị phá hủy, thế nên tôi đã lái xe đến cục Cảnh Sát Trưởng khi trở lại thị trấn và kể rằng mình đã bị tấn công bởi “những kẻ đào mộ” (tôi đang rất hoảng loạn, nhưng vẫn có đủ tỉnh táo để biết họ sẽ không tin tôi nếu tôi nói những gì tôi thật sự đã chạm trán trong nghĩa trang). Sau khi cho lời khai, họ gọi bố mẹ tôi đến đón tôi về, vì tinh thần tôi vẫn còn không ổn định. Mẹ tôi đã đón tôi về nhà bằng xe của họ và bố tôi lái xe tôi theo sau.

Tôi đi thẳng phòng sau khi về đến nhà và nằm phịch xuống giường, nhưng sau nhiều giờ, tôi mới có thể ngủ được.

****

Ngày hôm sau, cảnh sát tiểu bang đến hỏi tôi một số câu hỏi và tôi đã kể họ câu chuyện mà tôi đã kể Cảnh Sát Trưởng và các sĩ quan của ông: Tôi đang đi tuần quanh khu nghĩa trang thì có một vài kẻ đào mộ đã bất ngờ tấn công và đuổi theo tôi về nhà kho và cố xông vào trước khi tôi sử dụng khẩu súng mà Duke đã chỉ để đuổi chúng đi. Tôi đã không thể nhìn rõ mặt chúng và không biết chính xác chúng có bao nhiêu tên. Phía cảnh sát dường như đã không thỏa mãn bởi câu trả lời của tôi và vẫn còn hoài nghi – tôi nghĩ họ có thể cảm nhận được rằng tôi đang giấu lại điều gì đó – nhưng họ đã không hỏi thêm và bỏ về không lâu sau đó.

Hai ngày sau, Duke ghé thăm tôi ra sao. Tôi nói rằng tôi vẫn ổn, nhưng sau trải nghiệm đó tôi có thể sẽ không trở lại làm việc tại nghĩa trang. Ông tỏ vẻ thấu hiểu và rất lấy làm tiếc vì những gì đã xảy ra. Ông đã trả $60 tiền mặt cho ca trực thảm hại của tôi. Tôi đã nhận ra còn điều gì đó khác khiến ông phiền não. Khuôn mặt ông có sự cau có lo âu, thậm chí là hơi lo sợ. Tôi đã hỏi thăm về tiến trình điều tra nghĩa trang của phía cảnh sát (trên đài TV cũng đã thoáng đưa tin) và họ có tìm thấy bất kỳ manh mối nào, nhưng ông chỉ nhún vai và nói đến giờ vẫn chưa có gì. Bằng cách nào đó tôi cảm nhận được ông đang nói dối. Câu trả lời của ông có vẻ như đang lẩn tránh và tôi có cảm giác rằng ông biết nhiều hơn những gì ông nói. Ông ra về, và đó là lần cuối tôi nói chuyện với ông.

Tôi đã mất gần một tuần để vượt qua nỗi ám ảnh của mình nhưng rồi tôi đã dần trở lại được với cuộc sống bình thường. Tôi đã làm việc bán thời gian tại tiệm Blockbuster Video (khi đó nơi này rất nổi) cho đến hết mùa hè, rồi bắt đầu học cao đẳng trong mùa thu.

Sau khi tốt nghiệp đại học trong năm 2007, tôi tìm được một công việc trong thành phố, chuyển vào sống trong một khu chung cư tạm ổn, cưới vợ và có hai đứa con. Cũng đã mười tám năm từ sau đêm ấy, và tôi đã hầu hết để nó lại phía sau và lãng quên đi (trừ đôi lần tôi gặp ác mộng).

Nhưng rồi, tháng trước, một chuyện đã xảy ra.

Tôi đã đưa gia đình mình đến thị trấn miền quê nơi tôi lớn lên để thăm bố mẹ tôi trong cuối tuần. Tình cờ tôi gặp lại Bryan, con trai của Duke, khi đang đi chợ mua thức ăn. Cậu ta đã nhận ra tôi từ khi còn nhỏ (chúng tôi đã không thân nhau nhưng đã cùng học chung một trường và cũng thuộc kiểu có những người bạn chung) và đã mời tôi đến uống tại một quán bar để ôn lại chuyện cũ và trò chuyện về cuộc sống hiện tại của nhau. Bố cậu, Duke đã qua đời bình yên trong khi ngủ, tám năm trước và bây giờ Bryan đang thay thế bố làm việc tại nghĩa trang.

Tôi hỏi Bryan liệu phía cảnh sát có thêm manh mối về bất kỳ ai đã đạo mộ và tấn công tôi trong đêm ấy. Sắc mặt cậu ta đã lập tức thay đổi. Khuôn mặt cậu trở nên u tối và trở nên thận trọng. Cậu đã im lặng trong một lúc và có vẻ như đang tranh luận trong suy nghĩ rằng có nên nói tôi biết hay không. Cuối cùng, cậu đã ngã người gần hơn về phía tôi và bảo tôi phải hứa sẽ không nói bất kỳ ai khác biết những gì cậu sắp nói. Tôi đã hứa.

Bryan giải thích rằng cảnh sát đã điều tra phần mộ bị sụp kia và tìm thấy một địa đạo ở dưới đáy hố. Họ đã tiếp tục điều tra và đã phát hiện một mạng lười địa đạo bên dưới nghĩa trang như đã được đào bằng tay. Một lối vào đường hầm khác đã được tìm thấy bị che khuất bởi lớp bụi cây dày đặt ớ phía dưới của bờ kè sau nghĩa trang. Trong phần trung tâm của mạng lưới địa đạo đó là một cái hang có đầy những chiếc quan tài vỡ vụn – một số có niên đại hơn một trăm năm… và xương, cùng với những bộ phận cơ thể, một số vẫn còn tương đối tươi.

Những bộ phận cơ thể người kia có dấu hiệu như là đã bị ăn.

Tôi cảm thấy một cơn lại chạy khắp người.

Bryan uống nốt phần bia của mình rồi đặt chai xuống bằng bàn tay run rẩy. Cậu tiếp tục kể rằng sau phát hiện kinh hoàng ấy, phía cảnh sát đã báo FBI, và họ đã đến để điều tra, và sau khi FBI đến, một tổ chức chính phủ khác đã có mặt.

Tôi đã hỏi đó là ai nhưng cậu ta chỉ lắc đầu và nói rằng họ đã không tiết lộ. Chỉ là rằng thẩm quyền của họ vượt qua cả cảnh sát tiểu bang và FBI. Họ đã tiếp nhận cuộc điều tra, đóng cửa nghĩa trang và đã ra lệnh tất cả những ai có liên quan, bao gồm cả Duke, phải giữ im lặng bằng lời đe dọa sẽ tống giam hoặc hành quyết nếu có hó hé với ai. Khu nghĩa trang đã bị đóng cửa trong hơn một năm khi những người mặc trang phục HAZMAT thu gom xác vào những túi nhựa và chất chúng vào một xe van màu đen không biển số, mọi thứ đều diễn ra trong đêm, không để lại bất kỳ dấu vết nào. Hệ thống địa đạo đã bị lấp lại bởi đất. Sau đó, mọi thứ đã trở lại như bình thường.

Bryan đã ngồi đó im lặng một lúc. Tôi nghĩ cậu ta đã kể xong, nhưng rồi cậu đã kể thêm một chi tiết khác. Buổi sáng sau ca trực của tôi ở nghĩa trang, sau khi Cảnh Sát Trưởng đang đi vòng quanh xem xét trước khi lực lượng cảnh sát nghĩa trang đến để điều tra tường tận hơn, Bryan và bố của cậu đã tìm thấy một thứ ở ngoài nhà kho mà Cảnh Sát Trưởng đã bỏ qua. Một vũng chất lỏng màu đen trên đất, ở phía ngoài của cánh cửa mà tôi đã bắn. Duke đã nghĩ có thể đó chỉ là nhớt động cơ bị đổ từ trong một bình nào đó trong kho và gọi Bryan đến để dọn dẹp, nhưng Bryan đã phát hiện ra một thứ mà bố cậu đã không: một vết nhỏ của cùng loại chất lỏng trong cỏ dẫn ra khỏi nhà kho… hướng về phía bờ kè sau nghĩa trang. Cậu đã tò mò và thu thập một mẫu nhỏ rồi bỏ vào lọ khi bố cậu không để ý rồi gửi nó đến một người anh họ đang làm việc kỹ thuật viên trong Ban Nhân Chủng Học của một trường đại học ở bờ bên kia của đất nước. Vài tuần sau, cậu nhận được cuộc gọi từ anh họ mình. Họ đã phân tích mẫu vật. Họ đã có thể khẳng định đó là máu, nhưng chuổi DNA thì không như bất kỳ thứ gì họ đã từng thấy. Họ đã không thể nhận dạng mẫu máu này có nguồn gốc từ đâu… nhưng bất kể nó là gì, nó không phải là người.

1 thought on “Tôi Nhận Việc Canh Gác Nghĩa Trang Ca Tối. Tôi Đã Suýt Chết Trong Đêm Đầu Tiên

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *