Khi Tôi Còn Bé, Tôi Cùng Bà Ngoại Đi ‘Tìm Tiên’

Vào mỗi thứ bảy, Ngoại dẫn tôi đi tìm tiên. Chúng tôi bắt chuyến tàu 9:36 đến trạm Heuston, băng qua đường hầm, và rồi dành nhiều giờ đi lang thang qua khu rừng Ravenscroft, tay trong tay.

Ở phía bên kia của cái hồ lớn, đằng sau bức tường của những dây leo, có một điểm siêu bí mật mà chỉ có chúng tôi biết; một bãi cỏ phẳng, hoàn hảo cho những buổi cắm trại giữa ngày.

Khi chúng tôi nhai bánh nướng trái cây và nhâm nhi tách trà nóng trong bình thủy, Ngoại chỉ về phía một cây sồi gần đó, to lớn và có màu nâu và lốm đốm rêu.

“Nhìn kìa Evelyn, đó là nơi các tiên sống đấy,” bà nói, chỉ tay đến một lỗ rỗng bên cạnh thân cây.

Một vòng tròn những cây nấm mập, xốp bao quanh phần rễ lộ ra ngoài của cây, và bà khẳng định bất kỳ ai bước vào ‘vòng tiên’ đều có khả năng bị mắc kẹt trong vương quốc của họ.

Đối với tôi lúc mười tuổi, nghe nó như Narnia vậy.

Tất cả tôi muốn, hơn bất kỳ thứ gì, là được nhìn thấy những sinh vật màu nhiệm này. Đôi mắt tôi dán chặt vào cái lỗ đen kia cho đến khi Ngoại bắt đầu dọn dẹp, lúc này tôi nài nỉ bà chờ thêm mười phút nữa.

“Đừng lo lắng, Eve, tuần sau chúng ta lại đến,” bà nói, và rồi móc ngoéo với tôi.

Để tỏ lòng thành kính vì đã xâm phạm vào nhà của họ, Ngoại luôn để lại một gói sô cô la nhỏ – món ăn vặt yêu thích của tiên – lúc thì đặt dưới một khúc gỗ, lúc thì dưới những chiếc lá rụng.

Và đến tuần sau, những món ăn vặt kia luôn không còn ở đó…

Bất kể chúng tôi có cùng làm gì (lục lọi trong cửa hàng tiết kiệm; tập nhảy lò cò; hay thậm chí là bài tập về nhà) Ngoại và tôi luôn có khoảng thời gian tuyệt vời nhất, vì vậy bạn có thể tưởng tượng cảm giác đau đớn thế nào khi phát hiện thấy bà nằm trên sàn bếp, mắt bà trợn ngược lên hộp sọ của bà.

Bà nhập viện vào ngày 3 tháng 6, năm 2015. Hết lần này đến lần khác, những người lớn trong đời tôi hứa rằng bà sẽ sớm bình phục, nhưng khi đang ở cùng dì Christine, tôi rón rén đi xuống lầu một đêm nọ và nghe dì nói qua điện thoại.

“Giờ bệnh nhiễm trùng của Mary tội nghiệp đã nặng. Ngay cả khi bà ấy qua khỏi một cách thần kỳ, bà cũng sẽ quá yếu để trông chừng Evelyn.”

Trong lần tiếp theo đến thăm, Ngoại thở bằng máy thở, hai cánh tay bà có những vết bầm tím xấu xí.

Tôi nắm tay dì Christine và bảo dì rằng chúng ta phải đến Ravenscroft ngay. Có lẽ, khi đổi kẹo sô cô la với họ, các tiên sẽ cho tôi một điều ước như trong các câu chuyện?

Với giọng nói đầy vẻ thương cảm, dì giải thích rằng bây giờ Ngoại cần chúng ta ở gần, không phải những điều ước.

Tức giận, tôi chạy ra khỏi khu dưỡng bệnh, các bác sĩ và y tá đều gọi tôi. Tôi đi nhanh qua bãi đậu xe, bắt chuyến xe tiếp theo đến Heuston, và dùng tiền túi của mình để mua thỏi kẹo sô cô la to nhất.

Bên kia đường hầm, một người đàn ông có râu trao tờ rơi phản đối quyết định của hội đồng về việc san bằng Ravenscroft và phát triển một khu căn hộ. Tôi gấp tờ rơi này lại trong túi và lẩm bẩm, “Cảm ơn.”

Tại cây tiên, tôi đặt sô cô la ngoài vòng rồi nói, “Tớ không biết các cậu có nghe thấy không, nhưng tớ thực sự, thực sự cần một điều ước biến thành hiện thực: xin hãy làm cho bà tớ khỏe lại.”

Tôi ngồi khoanh chân ở đó cho đến hoàng hôn. Khi đó, không có một dấu hiệu tiên nào, và điều tệ hơn, dì Christine giờ chắc sẽ rất giận tôi.

Tức giận với các tiên, tôi la lớn, “Cảm ơn vì những điều tốt đẹp,” và rồi đá bay đầu một cây rơm ở gần nhất.

Tôi đi qua bức tường dây leo và giậm chân đi dọc lối mòn cho đến khi, bất thình lình, một âm thanh tiếng cánh vỗ phát ra từ phía cái cây, tôi không thấy gì cả.

Các tiên có phải đã nghe điều ước của tôi?

Tôi vén các dây leo và bước qua nhưng không thấy một sinh vật huyền bí nào – đó chỉ là một cô bé ốm yếu, trạc tuổi tôi và mặc một bộ áo blouse kỳ lạ, ngấu nghiến thỏi sô cô la với tốc độ đến mức khiến một con hà mã cũng phải hổ thẹn.

“Cậu có phải là tiên không?” Tôi hỏi, khi tôi chầm chậm tiến đến bên cậu ấy. Như tôi, cậu ấy cũng có tóc vàng xoăn, trừ việc tóc cậu ấy rối bù, dường như hoang dã.

“Tớ không phải tiên,” cậu ấy cáu gắt, miệng vẫn ngấu nghiến.

“Thế… cậu là gì?”

“Tớ là một đứa con gái.”

Tôi suy ngẫm điều này. “Thế làm sao quần áo cậu lạ thế?”

“Tại sao quần áo cậu lạ thế?”

Lạ à? Áo khoác hồng có hình kỳ lân thì có gì là lạ?

Tôi nói, “Cậu không nên ăn những thanh sô cô la đó, tớ để chúng cho các tiên đấy.”

“Thật ngớ ngẩn. Có ai nói với cậu rằng tiên là không có thật không?”

“Tiên là có thật.”

“Không đâu.”

Nắm tay tôi cuộn chặt thành nắm đấm. “Dù gì thì, tớ đã trả tiền cho chúng, và cậu thì đang ngốn chúng vào mồm cậu.”

Sau khi ợ lớn, cậu ấy nói, “Còn nữa không?”

Tôi lắc đầu. Và khi đó, cậu ấy trốn lại vào trong lỗ rổng.

“Ít ra thì cũng phải nói cảm ơn chứ,” tôi la lớn.

Không trả lời.  Tôi bước giẫm lên những cây nấm, bước thẳng đến lỗ rổng, và nhìn vào bên trong. Cô bé ấy đã biến mất. Nhưng bằng cách nào?

Và rồi, lời dặn của Ngoại văng vẳng trong tâm trí tôi. Đây có phải là cách những kẻ thay thế dụ trẻ con vào thế giới của họ?

Nếu đó là thật, tôi còn gì để mất? Không có điều ước, Ngoại sẽ không sống lâu.

Bước vào khoảng không gian tối đen, mặt đất nhường chỗ cho tôi và tôi ngã nhào về phía trước.

Tôi cắm cằm vào đất ướt. Tôi đứng dậy, phun rêu và lá khô khỏi miệng. Tôi đã ngã xuống ở ngoài cái cây. Nhưng chờ đã, chẳng phải tôi đã rơi vào đó sao? Thế này là sao?

Điều này dường như không quan trọng. Trên đầu, những đám mây bão đang hình thành và mặt trời gần như đã lặn. Không muốn bị lạc qua đêm, tôi bắt đầu quay trở lại con đường mòn.

Ngay lập tức tôi cảm thấy bối rối. Thay vì một bức tường dây thường lệ, giờ đây là những cành cây xương xẩu chằng chịt xung quanh, bị rung chuyển bởi một cơn gió mạnh, và cỏ có một lớp sương mới, như thể trời mới tạnh mưa.

Tôi len lỏi qua các cành cây và tìm kiếm các địa danh quen thuộc, quay ngược lại một lần, hai lần, chẳng mấy chốc nhận ra mình loạng choạng trong bóng tối.

Hy vọng một người đi bộ muộn sẽ đến giải cứu tôi, tôi đã kêu cứu hết lần này đến lần khác.

“Xin chào?” một giọng nam cuối cùng hét lại.

“Cháu bị lạc, xin hãy giúp cháu,” tôi hét lên, chạy qua một lùm cây rậm rạp, về hướng phát ra âm thanh.

Nhưng nghe tiếng khi một đôi ủng nặng nề chạy theo, tôi dừng ngay lại.

Tôi không chắc tại sao tôi đột nhiên bị hoảng sợ. Có lẽ đó là mùi hôi thối đi kèm với hình bóng đang đến gần. Hoặc có thể là chất khàn, chói tai trong giọng nói của nó, mà bây giờ tôi có thể nghe thấy rõ ràng trong bầu không khí rên rỉ. Dù có là hoàn cảnh nào, tôi có cảm giác mạnh mẽ rằng tôi không muốn bị nhìn thấy.

Tôi nhanh chóng tách ra khỏi con đường và ném thẳng lưng vào phía bên kia của một cây tần bì. Tôi nhắm mắt lại, toàn thân run rẩy khi giọng nói quanh quẩn vị trí của tôi. “Cưng đang ở đâu? Ra ngoài đi nào.”

Sau đó, không biết từ đâu, có thứ gì đó lướt qua cánh tay tôi.

Một bàn tay bịt miệng tôi, ngăn chặn bất kỳ âm thanh mà tôi có thể phát ra.

Kinh hoàng, tôi mở mắt ra thì thấy cô gái lúc nãy, một ngón tay trỏ đang đặt lên môi cậu ấy.

Chúng tôi bất động trong khi những bước chân nặng nề ì ạch đi qua, giọng nói chói tai tan vào bóng tối. Khi nó hoàn toàn giảm dần, cô gái thì thầm, “Đi thôi,” và kéo tôi dọc theo con đường mòn.

Trong mười lăm phút, cậu ấy hướng dẫn tôi đi qua một mê cung của những cái cây và hàng rào đung đưa. Ở phía bên kia của hồ, chúng tôi tiếp cận nơi giống như lối vào phía trước, ngoại trừ đường ray xe lửa phía trên đường hầm.

Và sau khi đường hầm đó dẫn chúng tôi đến nơi lẽ ra phải là phố Heuston, quai hàm của tôi há hốc ra. Vì nhà ga đã không còn, thay vào đó là hai dãy nhà gạch đỏ. Các cột đen có mái vòm ở trên cùng đứng gác cách nhau khoảng hai mươi mét, và không có ranh giới rõ ràng giữa đường và vỉa hè.

Chẳng lẽ đây là tiên giới?

Không quan tâm đến điều này, cô gái kéo tôi qua một cổng mái vòm hẹp, vào một con đường lát đá cuội kẹp giữa hai tòa nhà.

Vẫn lấy lại nhịp thở, tôi nói, “Cầu vượt.”

“Cái gì?”

“Đường ray xe lửa.”

“Ờ cái đó à. Nó chưa tồn tại.”

Tôi nhìn chằm chằm vào cậu ấy, chết lặng.

“Cậu đã du hành ngược thời gian,” cậu ấy nói như thể đây không phải là vấn đề lớn.

Đáp lại vẻ mặt bối rối của tôi, cậu ấy nói thêm, “Khi cậu trèo vào bên trong cái cây, cậu sẽ du hành xuyên thời gian.”

“Cậu đang nói dối.” Mặc dù tâm trí tỉnh táo của tôi vẫn phủ nhận, nhưng tất cả các giác quan của tôi đều công nhận điều này là đúng; làm thế nào khác để bạn có thể giải thích sự sắp xếp lại kỳ diệu của đường phố Heuston?

“Sao điều này lại khó tin thế nhỉ?” Cô gái cáu kỉnh hỏi. “Hai mươi phút trước chẳng phải cậu còn tin vào thần tiên sao?”

“Cái đó thì khác,” tôi cay đắng trả lời. “Tớ phải quay trở lại.”

“Cậu không thể.”

“Tại sao?”

“Pat đội mũ còn ở phía sau ta. Hắn chắc là vẫn đang tìm kiếm cậu.”

Pat đội mũ là ai?”

“Một người thần kinh. Họ nói hắn có trách nhiệm về một loạt trẻ em mất tích. Đó là lý do vì sao hắn sống trong một túp lều trong rừng một mình.”

“Không có đường đi vòng sao?” Tôi hỏi, vẫn đang vật lộn để xử lý những sự kiện này.

Cô gái lắc đầu.

Tôi suy nghĩ một lúc. “Nếu cái cây đưa tôi xuyên thời gian, vậy thì… tôi đang ở đâu?”

“1955.”

1955? Có phải các tiên đã gửi tôi đến đây để trừng phạt vì đã đá cây nấm ngu ngốc?

Chắc chắn rằng bây giờ họ sẽ không bao giờ giúp Ngoại nữa, tôi thu mình thành một quả bóng, ôm đầu gối vào ngực và khóc nức nở.

“Sao vậy?” cô gái hỏi.

“Tớ muốn về nhà.”

“Ồ. Chà… tớ có thể đưa cậu trở lại cái cây vào ngày mai được không?”

“Tớ phải làm gì cho đến lúc đó? Tớ không biết bất kỳ ai trong năm 1955 và cậu đã ăn mất thỏi sô cô la dành cho các tiên rồi.”

“Tại sao nó lại quan trọng thế?”

“Bởi vì tớ thực sự cần một điều ước. Bà tớ bị ốm và tớ cần các tiên để giúp bà khỏi bệnh.”

Trong khi tôi vùi mặt vào đầu gối, cô gái nói: “Sao cậu không về nhà với tớ? Cậu có thể trốn và chờ ở đó đến sáng.”

Nhìn lại, rất có thể cô ấy đề nghị vì cảm thấy tội lỗi trước tình trạng không may của tôi. Dì Christine sẽ phát ốm vì lo lắng cho tôi mất, nhưng dường như tôi không có nhiều sự lựa chọn.

Tôi đứng gạt nước mũi ra khỏi cằm. “Tốt thôi. Dù sao thì cậu cũng nợ tớ vì đã ăn sô cô la.”

“Rồi vậy đi. Nhân tiện, tên tớ là Rosie.”

“Evelyn.”

Bắt đầu đi xuống con hẻm, cậu ấy chỉ vào chiếc áo len của tôi. “Được rồi Evelyn, mọi người không quen với những loại quần áo đó vào năm 1955, và không ai khác biết về cái cây, vì vậy chúng ta phải ở ẩn. Ngoài ra, bà tớ sẽ nhảy dựng lên khi nghĩ đến một miệng ăn khác, vì vậy tớ sẽ lén đưa cậu vòng cửa sau.”

“Tớ cũng sống với bà ngoại,” tôi nói. Sau đó, trịnh trọng: “Ừ thì… đã từng.”

“Bà ấy có phải là một phụ nữ xấu tính đánh cậu bằng gậy không?” Rosie nói qua vai.

“Không, Ngoại rất hiền.”

“Thế thì tốt hơn của tớ rồi. Cậu có đói không?”

Như thể được gợi ý, bụng tôi lên tiếng.

“Chúng ta có thể ghé qua tiệm bánh. Cô Donnelly làm việc ở đó vào thứ Bảy. Nếu còn bất kỳ món ăn nào còn lại vào giờ đóng cửa, cô ấy sẽ cho tớ lấy chúng.”

Ở phía xa của một mạng lưới các con phố nhỏ đầy vũng nước, tôi lượn lờ trong bóng tối của một lối vào trong khi Rosie gõ vào một cánh cửa gỗ.

Một người phụ nữ tươi cười trong chiếc tạp dề màu xanh lá cây xuất hiện và đưa một ổ bánh mì, sau khi họ trò chuyện một lúc, người phụ nữ quay vào trong, sau đó Rosie vội vàng chạy đến và xé đôi ổ bánh mì. “Đây. Nó không ngon bằng sô cô la, nhưng nó vẫn khá ngon.”

Vào năm 1955, thị trấn giống như một ngôi làng buồn ngủ. Trong vòng vài phút, chúng tôi đã đến vùng ngoại ô, rồi một con đường đất ngoằn ngoèo đưa chúng tôi băng qua những cánh đồng của nông dân đầy gia súc và cừu, hướng tới một ngôi nhà tranh nhỏ màu trắng. Giày của chúng tôi kêu bèm bẹp trên đất khi chúng tôi rón rén vòng ra sau, về phía cửa sổ cao ngang ngực.

“Đợi ở đây,” Rosie thì thầm. “Tớ sẽ cho cậu vào ngay khi bà ngủ.”

Vài giây sau, giọng nói thô ráp, khàn khàn này bắt đầu. Từ âm thanh của mọi thứ, Rosie đã rơi vào nước sôi lửa bỏng khi về nhà muộn.

Để đỡ những cơn gió hú, tôi xoa xoa cánh tay cho đến khi cửa sổ xoay mở ra, sau đó người dẫn đường bé nhỏ kéo tôi vào trong một căn phòng ngủ chật hẹp với một chiếc tủ quần áo đơn giản và chiếc giường nhỏ xíu. Bụi bẩn đen bò lên những bức tường đá, và manh mối duy nhất về một cô gái ngủ ở đó là một con búp bê tóc đỏ đang nằm trên chiếc ghế đan bằng liễu gai ở một góc.

“Ngay sau khi tớ hoàn thành việc nhà của mình ngày mai, tớ sẽ đưa cậu trở lại cái cây,” Rosie nói. “Cậu có thể mượn quần áo cũ của tớ để chúng ta không phải lén lút.”

Tiếng ngáy của bà, chói tai hơn cả tiếng cưa máy, xuyên qua tường trong khi cậu ấy trải vài tấm ga trải giường và một tấm chiếu dọc sàn nhà, vì một cô gái hầu như không thể nằm vừa trên giường, chứ đừng nói đến hai người. Sau khi chúng tôi nằm xuống, tôi ngước lên nhìn Rosie và thì thầm, “Sao cậu lại biết nhiều về thứ du hành thời gian như vậy?”

Chống người lên bằng một khuỷu tay, cậu ấy hít một hơi thật sâu và bắt đầu vào câu chuyện.

Bà của Rosie có tính khí khó chịu, và bất cứ khi nào cần hoàn thành công việc nhà, bà sẽ quấn cây gậy lớn màu đen này quanh cổ cháu gái mình và phun ra mệnh lệnh.

Vào ngày sinh nhật thứ chín của mình, Rosie đã quá vội vàng để hoàn thành công việc vặt của mình và chơi nên cậu ấy đã không kiểm tra kỹ những quả chuối mà cậu ấy mua từ người bán rau quả, điều đó có nghĩa là cậu ấy đã bỏ sót một vết dập.

Khi nhìn thấy điều này, bà cậu ấy đứng cầm cây gậy như một thanh kiếm.

Trước khi mọi thứ trở nên rắc rối, Rosie đã lao ra khỏi cửa suốt dọc theo con đường, và cậu ấy không ngừng chạy cho đến khi đến Rừng Ravenscroft, nơi cậu ấy vô tư đạp đất xung quanh cho đến khi tình cờ gặp một cái cây có một cái hốc khổng lồ ở bên cạnh. Đó dường như là một nơi tốt để trốn và khóc, vì vậy cậu ấy đã chui vào trong cái lỗ.

Ngay lập tức mặt đất nhường chỗ, sau đó cậu tiếp đất bằng ngực.

Cậu ấy phun những chiếc lá khỏi miệng và liếc nhìn xung quanh. Gần đó, một bà cụ đang ngồi picnic.

“Cháu có đói không?” người phụ nữ hỏi, khi cô ấy đưa sô cô la cho Rosie.

Mặc dù Rosie biết không nhận đồ của người lạ, nhưng người này gợi nên cảm giác ấm áp, mời gọi. Thêm vào đó, cậu ấy thực sự, thực sự yêu thích sô cô la, thứ mà cậu ấy hiếm khi được ăn.

Trong khi họ ăn, người phụ nữ giải thích rằng Rosie đã rơi vào tương lai và chứng minh điều này bằng cách khoe một thiết bị công nghệ cao—theo mô tả—nghe giống như một chiếc điện thoại di động.

Sau khi họ ăn xong, Rosie thông báo rằng cậu ấy sẽ không bao giờ về nhà. Ở thời điểm nào cũng tốt hơn so với quá khứ.

Thật không may, người phụ nữ bí ẩn giải thích rằng việc ở lại sẽ rất nguy hiểm.

Như một sự thỏa hiệp, người phụ nữ hứa rằng bà ấy sẽ để lại nhiều món ăn hơn. “Lần tới khi cháu đói, sợ hãi hoặc phát ốm với bà của mình, hãy quay lại đây. Ta sẽ giấu thêm sô cô la cho cháu. Nhưng Rosie, đừng đi quá xa. Nếu cháu bị mắc kẹt trong tương lai, điều đó sẽ rất, rất tồi tệ.”

Và vì vậy, Rosie thường xuyên đến thăm địa điểm đó. Đôi khi có đồ ăn nhẹ, đôi khi không, và một lần vào ngày Giáng sinh, một con búp bê tóc đỏ chào đón cậu ấy.

Nhưng dù thế nào đi nữa, cậu ấy không bao giờ gặp lại người phụ nữ lớn tuổi đó nữa.

“Và tớ thậm chí còn chưa bao giờ có dịp cảm ơn bà ấy,” Rosie nói, câu chuyện của cậu ấy kết thúc bằng một nốt nhạc buồn.

“Chờ một chút,” tôi trả lời, phấn khích. “Bà tớ để lại đồ ăn vặt khi chúng tôi đi dã ngoại. Bà ấy có nói tên của bà không?”

“Mary, tớ nghĩ thế.”

“Đó là bà ấy,” tôi nói, hơi quá nhiệt tình. Ở phòng bên cạnh, tiếng ngáy ngừng lại trong một thời gian ngắn.

Tôi thì thầm, “Người phụ nữ để lại những món ăn là bà của tớ. Tớ có thể đưa bạn đến gặp bà ấy.”

Điều này khiến khuôn mặt của Rosie sáng lên. “Có thật không?”

Cảm giác phấn chấn đó không kéo dài lâu, bởi vì bây giờ tâm trí tôi quay trở lại năm 2015.

“Chuyện gì vậy?” Rosie hỏi.

Tôi giải thích bệnh tình của Ngoại nên bà không thể chăm sóc cho tôi.

“Nhưng chúng ta vẫn có thể đến thăm, phải không?”

“…tớ đoán vậy.”

“Và khi bà ấy khỏe hơn, chúng ta có thể đi dã ngoại không? Cả ba chúng ta?”

“Thỏa thuận ổn.” Tôi giơ ngón út lên. “Hứa nhé.”

Cậu ấy nhăn mặt. Rõ ràng, mọi người đã không móc ngoéo vào năm 1955.

“Đây, đưa ngón tay cho tớ nào.” Ngón út của chúng tôi lồng vào nhau. “Rồi. Bây giờ nó là một lời hứa đặc biệt.”

“Hử. Một lời hứa bằng ngón út.”

Với điều đó, hai chúng tôi chúc ngủ ngon cho nhau.

Sau một đêm ngủ trằn trọc trên sàn nhà thô ráp, Rosie đưa cho tôi một chiếc áo cánh bó sát và chiếc áo len để tôi có thể hòa vào thời đại. Chỉ có đôi giày thể thao của tôi là không vừa, còn tôi thì không có đôi giày dự phòng nào.

Sau khi lặng lẽ chui ra khỏi cửa sổ, tôi đợi trong khi bà của Rosie ra lệnh.

Cuối cùng, cậu ấy lê chân quanh nhà và thổi quả mâm xôi qua vai. “Bà cần tớ đi mua xúc xích từ người bán thịt. Tớ sẽ đưa cậu trở lại ngay sau đó.”

Trên đường đi, Rosie hỏi tôi những câu hỏi về tương lai—chủ yếu là về cách mọi người sống và làm việc. Cậu ấy không thể hiểu khái niệm về internet và không chịu tin rằng hai người đàn ông sẽ đặt chân lên mặt trăng trong vòng chưa đầy hai mươi năm nữa.

Đi được nửa đường vào thị trấn, từ bên kia con đường mòn, một nhóm con gái đang chơi nhảy lò cò gọi Rosie là yêu tinh, nghe có vẻ không mấy thân thiện. Lúc đầu, Cậu ấy phớt lờ họ, những lời lăng mạ của họ ngày càng lớn hơn và ác ý hơn cho đến khi cuối cùng cậu ấy cáu kỉnh và nói, “Các bạn muốn gì?”

Họ thách thức cậu ấy chơi trò nhảy lò cò.

Tiến lên phía trước, tôi nói, “Để tớ. Ngoại và tớ chơi suốt.”

Rosie nói với các cô gái rằng tôi là em họ của cậu ấy. Họ nhận xét về đôi giày kỳ lạ của tôi và bất cứ khi nào tôi sử dụng những từ hoặc cụm từ không phổ biến vào năm 1955, họ lại ném cho nhau những cái nhìn hài hước, nhưng cuối cùng, điều đó không thành vấn đề khi tôi thắng họ ba lần, nhè lưỡi.

Để đến thị trấn nhanh hơn, Rosie đã dạy tôi ‘lướt xe’, đó là khi bạn quá giang ở phía sau thùng của một chiếc xe ngựa. Một người đưa sữa đã chở chúng tôi đi được nửa dặm trước khi ông ta nghe thấy tiếng cười nghèn nghẹn của chúng tôi và dừng lại.

Chúng tôi cười khúc khích, ông ấy lắc nắm đấm.

Đó là niềm vui đầu tiên tôi có được kể từ khi Ngoại bị ốm. Chúng tôi chơi những trò chơi kiểu cũ với những đứa trẻ khác, nhận thêm phần thưởng từ người thợ làm bánh thân thiện và vẫy tay chào những người thợ đi xe đạp qua, nhanh chóng quên mất thời gian.

Vào giữa buổi chiều, trở lại ngôi nhà tranh, giọng nói gắt gỏng của bà của Rosie vang tận đến ngoài cuối ngõ, nơi tôi đợi. Và tôi đã đợi. Và tôi đợi thêm một lúc nữa.

“Xin lỗi, bà đã cấm túc tớ,” Rosie nói, cuối cùng cũng xuất hiện trở lại. “Tớ phải đợi cho đến khi bà ấy chợp mắt.”

“Tốt hơn là chúng ta nên nhanh chân,” cậu ấy nói, liếc nhìn mặt trời giờ đã bị cắt làm đôi ở đường chân trời.

Khi chúng tôi đến Ravenscroft, hoàng hôn đã buông xuống.

“Được rồi,” tôi nói, chạy bộ trên con đường đất, “chúng ta sẽ làm thế này: tớ sẽ về nhà và giải quyết ổn thỏa mọi chuyện với dì, sau đó vào trưa mai, tớ sẽ mang cho cậu một bộ đồ cải trang, và chúng ta sẽ đi gặp Ngoại.”

Rosie dừng lại và giơ ngón tay út lên. “Hứa nhé?”

“Hứa đấy.”

Khi chúng tôi đứng đó, những ngón tay đan vào nhau, một cành cây gãy, đâu đó rất gần. Sau đó, một mùi hôi thối bốc lên về phía chúng tôi.

Đầu chúng tôi quay ngoắt về hướng phát ra âm thanh, ở đó, phía trước 30 feet và ẩn mình trong bóng tối, một bóng người cao chót vót nhìn chúng tôi từ trong bóng tối.

“Chào buổi tối các cô gái,” hắn nói, một tay ôm lấy chiếc đèn lồng dầu. Hắn kéo chiếc đèn lồng lên cao hơn, chiếu sáng cái miệng xấu xí với những chiếc răng hàm lởm chởm. Người đàn ông đang nhìn chúng tôi chằm chằm đội một trong những chiếc mũ lưỡi trai phẳng đó – loại mà bạn thấy trong các bức ảnh đen trắng.

Trong khi hai chúng tôi đứng chôn chân tại chỗ, hắn ấy nói, “Cưng bị lạc à? Đừng lo lắng, tôi sẽ đảm bảo rằng các cưng sẽ về nhà bình an vô sự.”

Một bàn tay bọc trong chiếc găng cụt ngón mở ra, ngón trỏ ra hiệu cho chúng tôi lại gần. Rosie và tôi từ từ lùi lại.

Trong vài giây, những cành cây run rẩy và chuyển động khi gió thổi qua những dây buộc của cành cây. Sau đó, đột nhiên, ‘Pat đội mũ’ lao về phía trước.

Tay Rosie siết chặt quanh tay tôi. Cậu ấy kéo tôi về phía một bức tường cây rậm rạp, nơi chúng tôi rẽ sang một bên để có thể luồn qua một khe hẹp giữa các thân cây. Pat lao theo chúng tôi nhưng bị mắc kẹt giữa chừng, cào vào không khí. “Quay lại đây,” hắn ta gầm gừ, trong giọng nói của hắn ta có chút nọc độc thực sự.

Cánh tay của tôi và Rosie nhanh chóng bị cắt do băng qua một mê cung đầy cành cây sắc nhọn và bụi gai. Mỗi lần chúng tôi rũ bỏ kẻ theo đuổi mình, bằng cách nào đó, hắn đều lần ra được dấu vết.

Mồ hôi nhễ nhại, kiệt sức và không thể chạy được nữa, chúng tôi khom người sau một bụi cây và bất lực lắng nghe tiếng bước chân mỗi lúc một to hơn, gần hơn.

Với một tay chống đầu gối, vẫn còn thở hồng hộc, Rosie chỉ lên phía trước. “Những cái cây ở hướng đó. Tớ sẽ đánh lạc hướng hắn ta để cậu có thể thoát.”

“Rosie, đừng.”

Quá muộn. Không báo trước, cậu ấy ôm tôi thật nhanh rồi bỏ đi.

Đi được khoảng hai mươi thước, cậu nhặt một cành cây và bẻ làm đôi. Sau đó, bóng tối nuốt chửng người bạn mới của tôi. Tôi thậm chí không thể đuổi theo cậu ấy.

Những chiếc lá khô xào xạc khi kẻ truy đuổi chúng tôi đổi hướng. Khi chỉ còn tiếng gió rì rào, tôi lao theo hướng mà Rosie đã chỉ, nhanh chóng nhận ra mình lại nhìn chằm chằm vào nơi ẩn nấp của chúng tôi.

Tôi đã đi vòng, lạc lối trong vô vọng. Bị lộ. Chẳng mấy chốc Pat sẽ tìm thấy tôi, rồi tôi sẽ không bao giờ gặp lại Ngoại hay Rosie nữa. Sẽ không ai biết chuyện gì đã xảy ra với cô gái đã trốn khỏi bệnh viện…

Nhưng rồi, có tiếng vỗ cánh bay đến, sát bên tai tôi. Đầu tôi quay ngoắc lại.

Phía trước, bên cạnh một cây dương xỉ, tôi nghĩ mình thoáng thấy những đôi cánh giống như côn trùng, lấp lánh dưới ánh trăng nhợt nhạt. Chúng biến mất với một cái lắc đầu của tôi.

Không còn lựa chọn nào khác, tôi chạy theo hướng mà tôi đã nhìn thấy chúng – hầu như không nhận ra những chiếc gai cứa vào cổ và cổ tay mình – chui xuống dưới những cành cây đan vào nhau, và rồi thấy nó đứng sừng sững phía trước: cây tiên. Tôi đã trở lại được.

Những nhánh dày quanh co đó phập phồng lên xuống như những hơi thở lớn khi tôi phóng dọc theo chúng.

Với một chân bên trong cái hố, tôi do dự. Tôi không thể bỏ rơi Rosie. Nếu Pat bắt được cậu ấy, bọn trẻ cùng thời với tôi sẽ kể chuyện về linh hồn của một cô gái ám ảnh Ravenscroft.

Sau một hơi thở dài và sâu, tôi hét lên, “Này, tôi ở đây, yoo hoo,” cho đến khi một bụi cây ở rìa khoảng đất trống kêu xào xạc xung quanh. Sau đó, tôi lao vào trong cái hố, chân trái của tôi nhấc lên như thể tôi đang bước ba bậc cầu thang một lúc.

Giống như trước đây, thế giới nhường đường. Thay vì đổ nhào về phía trước, lần này tôi cúi thấp người, nhanh nhẹn luồn qua cành cây.

Một cây nấm bị dẫm đạp nằm chết phía trước. Tôi đã trở lại vào năm 2015. Bây giờ tôi chỉ cần—

Đằng sau tôi, Pat rơi khỏi hố xuống đất.

Hàm nghiến chặt, hắn ta nhìn lên và gầm gừ, “Con nhóc…”

Tiếng hét phát ra từ miệng tôi lớn đến nỗi chắc hẳn Rosie đã nghe thấy từ năm 1955.

Đôi chân tôi đưa tôi qua bức tường dây leo, điên cuồng làm việc với tốc độ tối đa. Bất chấp những nỗ lực của tôi để thoát Pat, anh ấy vẫn nóng nảy bám lấy đuôi tôi, cứ vài giây lại đưa tay ra sau gáy tôi.

Qua một lùm cây, ánh trăng gợn sóng xuất hiện trước mặt tôi, và ngay khi kẻ đuổi theo tôi nắm chặt một nắm tóc, cả hai chúng tôi ngã nhào xuống một bờ kè, va vào những tảng đá lởm chởm trên đường đi. Khi bàn chân tôi cong ở một góc kỳ lạ, một cơn đau nhói chạy dọc đùi phải của tôi.

Dòng nước đen ập vào như tắm nước đá. Bong bóng phun ra từ miệng tôi trong khi tôi xoay người theo mọi hướng, tìm kiếm bề mặt một cách mù quáng.

Đột nhiên, một vòng tay ôm lấy eo tôi. Chúng nhấc tôi lên khỏi mặt nước và đặt tôi trên một bãi cỏ bằng phẳng, vẫn nôn ra chất lỏng lợ và lá sũng nước.

Trước khi tôi có thể thở được hơi thở đầu tiên đó, hai bàn tay đeo găng tay cụt ngón ướt át siết chặt lấy cổ họng tôi.

Hộp sọ của tôi cảm giác như một quả bóng bay có quá nhiều không khí. Phía trên tôi, Pat hét lên rằng hắn ta nên giết tôi – rằng hắn ta sẽ giết tôi. Có vẻ như tôi đang nhìn hắn từ đáy giếng, và cái giếng đó cứ ngày càng chìm sâu hơn.

Tạm biệt Ngoại. Tạm biệt Rosie.

Nhưng sau đó, những giọng nói. “Ở đây. Hướng này.”

Những chùm đèn xuyên qua những tán cây trong khi chó sủa dữ dội.

Vài bóng người lao ra từ trong rừng: đàn ông và phụ nữ mang theo đèn pin; sĩ quan cảnh sát giữ chó đánh hơi trên dây xích ngắn.

Đó là một nhóm tìm kiếm. Nhóm tìm kiếm của tôi.

Các sĩ quan gần nhất nhắm súng lục của họ vào Pat, lúc này giơ cả hai tay lên không trung.

Khi áp lực to lớn xung quanh cổ họng tôi giảm bớt, một cơn ho dữ dội bắt đầu.

Ai đó quàng chiếc chăn quanh vai tôi rồi bế tôi về phía lối vào, một đám đông tụ tập phía sau chúng tôi khi tin tức lan truyền rằng cô gái mất tích đã được tìm thấy.

Dì Christine đang đứng cạnh một chiếc xe cảnh sát, mắt sưng húp và đỏ hoe. Khi chúng tôi xuất hiện từ khu rừng, một loạt nụ hôn đã được tung ra trên trán tôi.

Cuộc ‘bơi’ buổi tối muộn đó đã khiến tôi bị gãy mắt cá chân, chưa kể đến những vết cắt. Các nhân viên y tế vội đưa tôi đến bệnh viện để các bác sĩ đặt lại xương.

Dù đã uống thuốc giảm đau, tôi vẫn không chịu ngủ cho đến khi các y tá cho tôi gặp Ngoại. Tôi phải kể cho bà ấy nghe tất cả về cuộc phiêu lưu của mình—rằng tôi đã gặp cô gái mà bà đã để lại những thỏi sô cô la cho cô ấy.

Nhưng kể từ khi tôi mất tích, tình trạng của bà ấy đã thay đổi. Bây giờ, ngay cả với mặt nạ, mỗi hơi thở là một trận chiến.

Khi họ đẩy tôi đến bên bà ấy, tôi nghiêng người về phía trước và hỏi liệu bà có thể nghe thấy tôi không. Một cặp mắt đờ đẫn quay về phía tôi. Rồi, yếu ớt, bà nhấc bàn tay phải của mình lên, ngón tay bé bỏng cong lại.

Một móc ngoéo.

Ngay sau đó, tôi tình cờ nhìn thấy biểu đồ y tế phía trên giường của bà ấy có dòng chữ: Rosemary O’Sullivan.

Rosie. Mary.

Rose-mary.

“Rosie,” tôi nói, và bà ấy khẽ gật đầu.

Chúng tôi cùng nhau khóc nức nở, ngón út của chúng tôi lồng vào nhau, cho đến khi đầu bà gục xuống vai.

Trong góc, máy đo nhịp tim phát ra tiếng đều đều: eeeeeeeee.

Các y tá lao vào. Một người đẩy tôi ra trong khi người khác đè lên ngực Ngoại, nhưng không thể làm gì được. Thời gian của bà đã đến.

Một tuần sau, các bác sĩ cho tôi xuất viện, bác bỏ câu chuyện của tôi như một cơ chế đối phó, hoặc ảo giác do nuốt nước hồ gây ra.

Điều đầu tiên tôi làm là bắt chuyến tàu đến ga Heuston, nghĩa là để cảnh báo cho Rosie về tương lai – về những gì sắp xảy ra.

Nhưng khi tàu dừng lại, tim tôi chùng xuống.

Khu rừng đã biến mất. Ở vị trí của nó, những chiếc JCB và xe lu chạy qua những đống đất khổng lồ, những khúc gỗ nằm ngang chất đống hình kim tự tháp đây đó.

Cái cây đã biến mất. Và cùng với nó, ô cửa của tôi trở lại năm 1955…

___________

Điều thúc đẩy tôi viết điều này là việc tìm lại được một lá thư cũ mà Bà đã viết trước khi qua đời. Sau đám tang, tôi đã trải qua nhiều tuần dưới một đám mây bão, lo lắng cho Rosie tội nghiệp bị mắc kẹt trong quá khứ, một mình.

Nhưng rồi một buổi chiều, dì tôi đưa tôi đến nhà bà ngoại để chúng tôi quyết định nên ném cái gì và giữ cái gì. Ở cuối một số mẩu báo, có một lá thư gửi cho tôi. Tôi nghĩ bạn có thể thích xem nó…

Evelyn,

Đến giờ chắc cháu đã nhận ra rằng cây tiên là một cánh cửa dẫn vào quá khứ, và bà biết cháu đủ thông minh để phát hiện ra bà chính là Rosie.

Từ ngày chia tay, bà trở về năm 2015 đợi cháu như đã hẹn. Bà đã đợi từ giữa trưa cho đến khi mặt trời lặn, nhưng cháu không bao giờ đến, vì vậy bà đã quay lại vào ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa.

Khi bà nhận ra Pat đã biến mất, bà trở nên lo lắng và quyết định tự mình đi tìm cháu.

Vào năm 2015, bà tình cờ gặp một người đàn ông mặc áo khoác màu cam sáng và đội mũ bảo hiểm và hỏi ông ta có biết một cô gái tên là Evelyn không. Ông ta nói rằng cô ấy đã mất tích, nhưng họ đã tìm thấy cô ấy bên hồ và bị tấn công. Ông ta nói với bà rằng họ đã đưa cháu đến bệnh viện và người đàn ông vào tù.

Sau đó, ông ta hỏi bà đang làm gì ở đó. Ông ta nói toàn bộ khu rừng giờ là tài sản riêng và bà đang xâm phạm.

Khi bà từ chối đi với ông ta, ông nổi giận và định kéo bà đi, nhưng bà gạt ông ta và bỏ trốn về năm 1955. Bà sợ quá không dám tìm cháu thêm sáu tuần nữa, và lúc đó, cửa sổ đã đóng. Bây giờ nó chỉ là một cái cây bình thường.

Bất cứ lúc nào bà cảm thấy buồn, cô đơn hay sợ hãi, bà đã cố gắng tìm cháu, nhưng cái cây không hoạt động trở lại cho đến năm 1977, bây giờ đưa bà về năm 1917.

Bà đã có những năm đen tối một mình với bà ngoại. Nhưng ngay sau sinh nhật lần thứ mười hai của bà, một căn bệnh khủng khiếp đã cướp đi bà ấy, và bà được gửi đến sống với cha mẹ nuôi tuyệt vời nhất. Bà lớn lên khỏe mạnh và hạnh phúc, trải qua vài năm trong vũ trường để tán tỉnh bạn bè, và rồi cuối cùng gặp ông của cháu, người đàn ông đẹp trai nhất mà bà từng gặp. Chẳng mấy chốc, mẹ của cháu đã đến, và đó là thế.

Nhiều năm sau, bà mới biết cháu là ai khi hỏi mẹ đang mang thai của cháu rằng cô ấy có nghĩ về tên cho em bé chưa, và cô ấy nói rằng cô ấy thích ‘Evelyn’ nếu đó là con gái.

Bà ngã ngửa ngay khi lần đầu tiên nhìn thấy cháu. Bà biết sẽ có bi kịch phía trước kể từ khi cháu nói với bà rằng chúng ta sẽ sống cùng nhau trong tương lai, và chắc chắn có những lúc bà không nghĩ rằng chúng ta sẽ vượt qua được, nhưng chúng ta luôn làm được.

Bà đã rời xa cái cây cho đến ngày 23 tháng 8 năm 2014, sinh nhật của bà. Bà biết bà lúc trẻ sẽ sắp tìm thấy con đường đến tương lai, vì vậy bà dành một buổi dã ngoại nhỏ và chờ đợi, sau đó bà giải thích cho cô ấy mọi thứ về du hành thời gian. Khi hội đồng công bố kế hoạch san bằng Ravenscroft ngay sau đó, bà đã hiểu tại sao cánh cửa lại đóng lại từ nhiều năm trước.

Cháu đã nói với bà rằng bà bị ốm trong thời của cháu và không thể khỏe lại được, vì vậy có thể cháu sẽ không đọc được điều này cho đến khi bà qua đời. Bà muốn cháu biết rằng bà đã có một cuộc sống tuyệt vời và cháu là một phần quan trọng trong đó, vì vậy cảm ơn cháu.

Bà xin lỗi chúng ta không thể dành nhiều thời gian với nhau. Bà rất tiếc sẽ không còn chuyến đi nào đến Ravenscroft nữa, và bà xin lỗi vì chúng ta đã không bao giờ có chuyến dã ngoại đó, cháu, bà và cô bé Rosie. Nhưng nếu cháu đang cảm thấy buồn, hoặc nếu cháu cần một bờ vai để tựa vào khóc, hãy nhớ rằng bà sẽ luôn ở bên cháu, giống như cháu đã luôn ở bên bà.

Móc ngoéo.

Bạn của cậu,

Rosie.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *