Bản Đồ
Có một bình luận trong bài đăng trước khiến tôi gợi nhớ lại một sự kiện từ tuổi thơ của tôi mà tôi luôn nghĩ nó kỳ lạ nhưng chưa bao giờ nghĩ nó có liên quan đến những câu chuyện này. Giờ tôi biết là nó có liên quan. Thật hài hước khi nghĩ đến cách ký ức vận hành. Những chi tiết tuy luôn ở đó trong tâm trí bạn, nhưng không nhất thống và rải rác, và rồi một suy nghĩ duy nhất có thể xâu chuỗi chúng lại với nhau gần như ngay tức khắc. Tôi chưa hề nghĩ nhiều đến những sự kiện này vì tôi luôn tập trung vào những chi tiết không đúng. Tôi đã trở về nhà của mẹ tôi và xem lại những bài tập về nhà để tìm kiếm một thứ gì đó mà tôi nghĩ rằng nó quan trọng. Tôi không thể tìm được gì, nhưng tôi sẽ tiếp tục tìm. Một lần nữa, xin thứ lỗi vì bài viết dài.
Hầu hết những thành phố và khu dân cư cũ trong chúng đều không được lên kế hoạch với suy nghĩ về dân số sẽ bắt đầu gia tăng theo cấp số nhân và nó có thể duy trì được điều ấy. Bố cục của các con đường nói chung ban đầu là để đáp ứng các hạn chế về địa lý và sự cần thiết của việc kết nối các địa điểm có tầm quan trọng về mặt kinh tế. Một khi những con đường liên kết được thiết lập, các doanh nghiệp và đường mới được phát triển một cách có chiến lược bên cạnh khung sườn cũ, và cuối cùng những lối đi khắc lên mặt đất được bất tử hóa bằng nhựa đường, chỉ để lại chỗ cho những sửa đổi, bổ sung và thay đổi nhỏ, nhưng không bao giờ là thay đổi đáng kể.
Khu xóm tuổi thơ của tôi có thể cũ, khi đấy. Nếu đường thẳng được xây dựng như “đường bay của quạ” thì khu dân cư cũ của tôi được xem như được dựng dựa trên đường rắn bò. Những ngôi nhà đầu tiên chắc hẵn được xây quanh hồ và dần dần khu vực sinh sống được mở rộng khi nhiều đường nối được tạo nên dựa theo những lối cũ, nhưng những đường nối dài này thường kết thúc đột ngột tại điểm này hay điểm khác – chỉ có một đường ra vào cho toàn bộ khu dân cư. Nhiều đường trong số những đường nối dài này bị giới hạn bởi một nhánh sông vừa được cho ăn và uống nước từ hồ và đi ngang qua cái mà tôi gọi (và trong những câu chuyện này đã gọi) là “con mương”. Nhiều ngôi nhà ban đầu có những khoảng sân rộng lớn, nhưng một số mảnh đất ban đầu đã bị chia nhỏ, để lại những tài sản có ranh giới ngày càng nhỏ. Một cái nhìn từ trên không về khu phố của tôi sẽ cho người ta ấn tượng rằng một con mực khổng lồ đã chết trong rừng và một doanh nhân mạo hiểm nào đó đã tìm thấy xác chết của nó rồi tạo nên con đường trải nhựa dựa theo các xúc tu của nó để giảm thiểu sự liên quan của mình và để thời gian, lòng tham, và sự tuyệt vọng chia cắt đất giữa các chủ sở hữu nhà tương lai, như một nỗ lực đáng xấu hổ để bắt chước Tỷ Lệ Vàng.
Từ mái hiên trước nhà tôi bạn có thể thấy những ngôi nhà cũ quanh hồ, song nhà của bà Maggie là ngôi nhà tôi yêu thích nhất. Bà ấy, theo tôi nhớ rõ nhất, khoảng 80 tuổi, nhưng bà là một trong những người thân thiện nhất mà tôi từng gặp. Bà để đầu buông lơi, những lọn tóc trắng và luôn mặc những chiếc vái hoa nhẹ nhàng. Bà nói chuyện với tôi và Josh từ hiên nhà sau khi chúng tôi đang bơi trong hồ, và bà luôn mời chúng tôi ăn nhẹ. Bà ấy nói rằng bà ấy cô đơn vì chồng bà, Tom, luôn đi công tác xa, nhưng Josh và tôi luôn từ chối lời mời của bà vì dù bà Maggie có tốt cách mấy nhưng, vẫn có gì đó kỳ quặc ở bà.
Thỉnh thoảng khi chúng tôi bơi đi, bà ấy nói, “Chris và John, hai con được chào đón ở đây bất cứ lúc nào!” Và chúng tôi có thể nghe thấy bà vẫn còn la lớn điều ấy khi chúng tôi trở về nhà tôi.
Bà Maggie, như những chủ sở hữu nhà cũ khác, có một hệ thống phun tưới nước hẹn giờ, dù rằng qua năm tháng, hệ thống ấy của bà có thể đã hỏng vì máy phun nước sẽ bật lên nhiều thời điểm trong ngày và thường cả buổi tối suốt năm. Dù thời tiết không đủ lạnh để có tuyết nhiều, nhiều lần trong mùa đông khi tôi ra ngoài buổi sáng và thấy sân nhà bà Maggie biến thành một thiên đường Bắc Cực siêu thực bởi nước đã đóng băng. Mọi sân nhà khác đều khô cằn bởi cái lạnh buốt giá của mùa đông, nhưng ngay giữa sự nhắc nhở ảm đạm về sự man rợ của mùa đông là một ốc đảo băng xinh đẹp treo lơ lửng như những nhũ đá trên từng nhánh của những cành cây và trên từng chiếc lá của những bụi cây. Khi mặt trời mọc, nó phản chiếu lại và từng mảnh băng phá vỡ ánh nắng thành một cầu vồng mà bạn chỉ có thể nhìn thoáng qua trước khi nó khiến bạn trở nên mù lòa. Ngay cả khi còn nhỏ, tôi đã bị ấn tượng bởi vẻ đẹp của nó, và tôi và Josh thường đến đó để đi dạo trên bải cỏ băng và đấu kiếm với những cây nhũ băng.
Tôi đã từng hỏi mẹ vì sao bà ấy lại để máy phun nước mở như thế. Mẹ tôi trông như vẻ suy nghĩ cách giải thích rồi nói,
“Chà, con trai cưng à, bà Maggie bị bệnh thường xuyên, và đôi khi bà bệnh quá và nhầm lẫn. Đó là vì sao bà hay nhầm tên của con và Josh. Bà không có ý muốn thế đâu, nhưng đôi lúc, chỉ là bà không thể nhớ thôi. Bà sống trong ngôi nhà lớn ấy một mình thế nên đôi khi con có thể trò chuyện với bà mỗi lúc con bơi trong hồ, nhưng khi bà mời con vào nhà thì con nên luôn từ chối. Con phải lễ phép; bà ấy sẽ không buồn đâu.”
“Nhưng bà ấy sẽ bớt cô đơn khi chồng bà ấy trở về, đúng không? Ông ấy đi công tác bao lâu? Có vẻ như ông ấy luôn đi xa ạ.”
Mẹ tôi gặp khó khăn trả lời và tôi nhận ra rằng bà trở nên không vui. Cuối cùng, bà trả lời,
“Con à… ông Tom sẽ không trở về nữa. Ông Tom đang ở trên thiên đường. Ông ấy mất nhiều năm trước, nhưng bà Maggie không nhớ. Bà luôn nhầm lẩn và hay quên, nhưng ông Tom sẽ không trở về nữa. Nếu có ai trở về ở nhà cùng bà ấy bà thậm chí có thể nghĩ rằng đó chính là ông Tom, nhưng ông đã mất rồi, cưng à.”
Khi đó tôi chỉ khoảng 5-6 tuổi khi mẹ tôi kể tôi biết điều ấy, và dù tôi thể hiểu toàn bộ, tôi cảm thấy buồn cho bà Maggie.
Giờ tôi biết rằng bà Maggie mắc bệnh Alzhiemer. Bà và chồng, ông Tom, có hai đứa con: Chris và John. Cả hai người con đã có kế hoạch chi trả hóa đơn với công ty điện nước, nhưng họ không bao giờ đến thăm mẹ mình. Tôi không biết liệu có gì xảy ra giữa họ, hay chỉ là do bệnh, hay họ có sống cách xa nơi này, nhưng họ không bao giờ đến. Tôi không biết mặt họ, nhưng có lần bà Maggie hẵn là đã lầm tưởng tôi và Josh giống họ khi họ còn bé. Hay có lẽ bà thấy được điều mà một phần trong tâm trí của bà quá tuyệt vọng muốn bà nhìn thấy; bỏ qua những hình ảnh từ những dây thần kinh thị giác của bà và chỉ một chút cho bà ấy thấy những gì đã từng ở đó. Bây giờ tôi mới nhận ra rằng bà ấy hẳn đã cô đơn đến nhường nào.
Trong suốt mùa hè sau mẫu giáo, trước sự kiện “Bong Bóng Bay,” Josh và tôi đã dành thời gian khám phá khu rừng gần nhà tôi, cũng như những nhánh rẽ của hồ nước. Chúng tôi biết rằng những khu rừng nhà tôi đều liên kết với nhau, và chúng tôi nghĩ rằng sẽ rất tuyệt nếu hồ gần nhà tôi bằng cách nào đó cũng liên kết với con lạch xung quanh nhà cậu ấy, vì vậy chúng tôi quyết tâm đi khám phá.
Chúng tôi sẽ vẽ bản đồ.
Kế hoạch của chúng tôi là vẽ hai bản đồ riêng biệt và sau đó ghép chúng lại với nhau. Chúng tôi sẽ vẽ một bản đồ khu vực quanh con lạch gần nhà cậu ấy, và vẽ một cái khác lần theo nhánh rẽ từ hồ gần nhà tôi. Thoạt đầu, chúng tôi chỉ định vẽ một bản đồ, nhưng nhanh chóng nhận ra điều ấy là bất khả thi vì khi bắt đầu vẽ bản đồ khu vực của tôi, nó quá lớn đến nỗi con đường từ nhà cậu ấy sẽ không khớp tỷ lệ. Chúng tôi giữ bản đồ của hồ ở nhà tôi và bản đồ của con lạch ở nhà cậu ấy, và rồi chúng tôi sẽ vẽ thêm từng chút khi chúng tôi ở nhà của nhau.
Trong hai tuần đầu tiên mọi thứ diễn ra khá suông sẻ. Chúng tôi cùng băng vào rừng dọc theo nhánh rẽ của hồ và dừng mỗi phút để vẽ thêm vào bản đồ và có vẻ như hai bản đồ sẽ khớp với nhau. Chúng tôi đã không có dụng cụ cần thiết cho công việc – cả la bàn cũng không có – nhưng đã cố gắng dùng mọi cách chúng tôi có thể. Chúng tôi có một ý tưởng ghim cọc xuống đất khi kết thúc chuyến thám hiểm để khi chúng tôi nhìn thấy cái cọc ấy từ hướng ngược lại, chúng tôi biết mình có thể ghép hai bản đồ với nhau. Chúng tôi có thể trở thành những nhà vẽ bản đồ tệ nhất thế giới. Cuối cùng, tuy nhiên, khu rừng trở nên quá rậm rạp ở phía nhánh rẽ của hồ nước và chúng tôi đã không thể tiến xa hơn. Chúng tôi đã không còn hứng thú cho dự án ấy trong một thời gian, và giảm lại số lần khám phá một cách đáng kể, dù không hoàn toàn, khi chúng tôi bắt đầu bán đá bào.
Sau khi tôi cho mẹ tôi xem những tấm ảnh tôi đã mang về từ trường và bà đã lấy lại máy làm đá bào, sự hứng thú khám phá của chúng tôi lại được hồi sinh. Chúng tôi đã nghĩ đến một kế hoạch khác. Dù tôi không hiểu lý do, mẹ tôi đã đặt điều mà tôi nghĩ là hạn chế nghiêm trọng cho những gì tôi có thể làm hay những nơi tôi có thể đi, và tôi phải thường xuyên cập nhật mỗi khi ra ngoài chơi với Josh. Điều này đồng nghĩa chúng tôi không thể ở ngoài rừng nhiều giờ liền và tiếp tục tìm kiếm đường mới. Chúng tôi nghĩ mình có thể bơi khi đến nơi bị gián đoạn trong rừng, nhưng điều ấy rõ là không thể vì bản đồ sẽ bị ướt. Chúng tôi đã cố đi nhanh hơn khi ở phía nhà của Josh, nhưng rồi cũng gặp cùng vấn đề. Và rồi chúng tôi có một sáng kiến tuyệt vời.
Chúng tôi dựng một cái bè.
Nhờ những dự án xây dựng trong khu dân cư, có một lượng lớn vật liệu xây dựng thừa thải mà công ty xây dựng để dưới mương để không làm tắt đường và ngoài công trường vì họ không cần dùng chúng nữa. Ban đầu chúng tôi chỉ quan niệm một con tàu hoành tráng hoàn chỉnh với cột buồm và mỏ neo, nhưng ý tưởng ấy nhanh chóng giảm dần thành một thứ gì đó dễ quản lý hơn. Chúng tôi để gỗ sang một bên và lấy một số miếng xốm lớn được đóng lại bằng ván xốm rồi buộc chúng lại với nhau bằng dây thừng và dây diều.
Chúng tôi thả bè của mình cách nhà bà Maggie rồi vẫy chào tạm biệt bà khi bà ra hiệu gọi chúng tôi quay lại. Nhưng không có gì có thể ngăn cản chúng tôi.
Cái bè của chúng tôi rất tốt, và dù chúng tôi hành xử và nói chuyện như thể nó là điều hiển nhiên, tôi biết chí ít rằng tôi đã cảm thấy có chút ngạc nhiên. Mỗi người chúng tôi có một cành cây khá dài để dùng như mái chèo, nhưng đã phát hiện rằng sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu chỉ cần đơn giản chống và đẩy lên phần đất dưới nước. Khi mực nước trở nên quá sâu, chúng tôi nằm sấp bụng và dùng bàn tay của mình để chèo nước, vẫn được – dù ít hữu hiệu hơn. Lần đầu tiên chúng tôi phải dùng đến phương pháp đẩy đó, tôi nhớ mình đã nghĩ rằng từ phía trên cao, nó hẳn trông như một người đàn ông to béo với những cánh tay nhỏ bé đang bơi vậy.
Chúng tôi đã mất nhiều chuyến để đưa được chiếc bè đến mốc cuối cùng không thể đi tiếp của khu rừng. Sau khi chúng tôi nghĩ ra cách đánh dấu trên đất bằng cọc, chúng tôi chỉ việc chạy thẳng đến mốc cuối và rồi, tỉ mỉ nhất theo khả năng của chúng tôi, đánh dấu đoạn đường của mình. Điều ấy đồng nghĩa mốc cuối cùng thì ở khá xa, nên việc chèo đến lại đoạn bị chặn của khu rừng tốn nhiều thời gian hơn dự kiến. Chúng tôi chèo một lúc rồi neo bè lại và rồi lần tiếp theo chúng tôi lại chạy bộ đến nơi mình đã neo bè và rồi tiếp tục đi xa hơn.
Chúng tôi tiếp tục việc này cho đến năm lớp một. Josh và tôi được chia vào những Nhóm khác nhau trong năm ấy, thế nên do không thể gặp nhau trong tuần, bố mẹ chúng tôi càng dễ dàng chấp thuận chúng tôi cùng đi chơi trong cuối tuần. Hơn thế nữa, bố của Josh đã nhận việc xây dựng dài hạn yêu cầu ông phải làm việc cả trong cuối tuần, và mẹ cậu ấy thì chờ công việc gọi, thế nên Josh sẽ ở nhà tôi hầu hết mỗi cuối tuần.
Lẽ ra, chúng tôi đã có những tiến độ xuất sắc, nhưng cuối cùng khi đến được đoạn bế tắc và có cơ hội khám phá vượt qua nó, chúng tôi không thể tìm thấy nơi nào để neo chiếc bè. Khu rừng quá dày, và nước đã xói mòn đất đến mức có một đoạn đất nhô lên gần hai mét so với nhánh sông, làm lộ ra bộ rễ ngoằn ngoèo và ẩm ướt của những cái cây bên trên. Chúng tôi phải quay lại mọi lúc và neo bè tại cùng một đám cây dày đã thúc đẩy chúng tôi dựng nó ngay từ đầu. Thậm chí tệ hơn, mùa đông đã đến, vì thế chúng tôi không còn có thể biện minh cho việc ra khỏi nhà trong bộ đồ bơi của mình; chúng tôi chẳng đi đến đâu – chúng tôi luôn phải về nhà trước khi có thể đi được thêm xa hơn.
Trong một ngày thứ bảy, khoảng bảy giờ tối, Josh và tôi đang chơi cùng nhau khi một trong những đồng nghiệp của mẹ tôi gõ cửa. Tên cô ấy là Samantha, và tôi nhớ cô ấy rõ vì tôi đã cầu hôn cô ấy vài năm sau đó khi đang đến thăm mẹ tôi tại nơi làm việc. Mẹ tôi nói rằng bà phải đến nơi làm việc để sửa một rắc rối và bà sẽ quay lại trong hai giờ đồng hồ. Xe của mẹ tôi đang được đưa đi sửa nên bà đã phải đi cùng với Samantha, nhưng tôi đoán vấn đề là do lỗi của Samantha và thảo luận về nó trên xe chính là lý do vì sao chỉ mất hai giờ. Bà nói rằng chúng tôi không được rời khỏi nhà hay mở cửa cho ai dưới bất kỳ trường hợp nào và mẹ tôi đang giải thích rằng sẽ gọi mỗi giờ khi đến đó để kiểm tra, nhưng mẹ tôi đã sớm kết thúc câu nói đó khi nhớ ra rằng điện thoại chúng tôi đã bị tắt vì các khoản thanh toán quá hạn – đây là lý do vì sao Samantha đến mà không báo trước. Bà nhìn thẳng vào mắt tôi khi đóng cửa lại và nói “Ở yên đấy.”
Đây là cơ hội của chúng tôi.
Chúng tôi quan sát bà ấy lái xe trên con đường rắn ngoằn ngoèo về phía lối ra, và ngay khi chiếc xe rẽ khỏi khúc cua cuối cùng trong tầm mắt, chúng tôi chạy trở lại phòng của tôi. Tôi trút ba lô mình ra trong khi Josh chộp lấy bản đồ.
“Này, cậu có đèn pin không?” Josh reo lên.
“Không, nhưng chúng ta sẽ quay lại trước khi trời tối.”
“Tớ nghĩ để phòng hờ, chúng ta nên có một cái.”
“Mẹ tớ có một cái, nhưng tớ không biết bà để nó đâu rồi… chờ đã!”
Tôi chạy vào trong tủ quần áo của mình rồi kéo xuống một cái hộp từ trên kệ đầu tiên.
“Cậu có đèn pin trong đó à?” Josh hỏi.
“Không hẳn…”
Tôi mở hộp ra và trong đó có ba cái nến La Mã mà tôi đã lấy từ đống pháo mà mẹ tôi mua trong ngày Lễ Quốc Khánh mùa hè trước; cùng với một bật lửa mà tôi có được từ bà vài tháng trước, thế này sẽ đảm bảo chúng tôi có ít nhất một chút ánh sáng nếu chúng tôi cần đến nó. Lúc này là không lâu trước khi tôi có cơ hội được tạo cơ hội để sợ khu rừng vào ban đêm, vì vậy nó không phải là nỗi sợ hãi đã thúc đẩy việc tìm kiếm nguồn sáng của chúng tôi – chỉ tính thiết thực mà thôi. Chúng tôi ném tất cả vào ba lô và phóng ra ngoài cửa sau, đảm bảo đóng nó lại để Hộp Hộp không chạy ra ngoài. Chúng tôi có một giờ và năm mươi phút.
Chúng tôi chạy băng qua khu rừng nhanh nhất có thể và đã đến được chiếc bè trong mười lăm phút. Chúng tôi đã mặc sẵn quần bơi dưới lớp quần áo, thế nên chúng tôi đã cởi bỏ áo sơ mi và quần đùi của mình rồi để chúng thành hai đống riêng ở cách mép nước khoảng bốn feet. Chúng tôi gỡ nút cột chiếc bè ra khỏi cây, nắm lấy những mái chèo nhánh cây của chúng tôi, rồi chèo đi.
Chúng tôi cố di chuyển thật nhanh chóng để đến được điểm ngoài nội dung của bản đồ ngày càng được mở rộng của chúng tôi, vì chúng tôi không có thời gian để lãng phí để ngắm nhìn những điểm tham quan cũ. Chúng tôi biết rằng mình ở trên bè sẽ chậm hơn trên cạn, và chúng tôi sẽ ở trên bè khá lâu sau điểm cắt đoạn vì rừng quá dày để đi và không có chỗ để cập bến; điều này có nghĩa chúng tôi sẽ phải đi thuyền quay trở lại vị trí neo đậu ban đầu ngay cả khi chúng tôi đã tìm thấy một địa điểm mới để neo nó ở phía trước.
Sau khi qua được điểm đã được đánh dấu trên bản đồ của chúng tôi, mực nước trở nên rất sau và cuối cùng chúng tôi không còn chạm được đáy bằng những cành cây của mình nữa, thế nên chúng tôi đã nằm sấp và dùng tay để quạt. Trời đang tối dần và việc phân biệt cây này với cây khác trở nên khó hơn, và chúng tôi đều hơi hoảng sợ. Để tranh thủ thời gian chúng tôi quạt bằng cả bốn tay, nhưng điều ấy đã tạo nên rất nhiều tiếng động và tay chúng tôi cứ mãi đập vào nhau và rồi đập tan sức căng của bề mặt nước. Suốt khoảng thời gian ấy chúng tôi nghe thấy tiếng lạo xạo của những chiếc lá chết và tiếng những chiếc que gãy rơi trong rừng ở bên phải chúng tôi. Khi chúng tôi giảm tốc độ và giảm bớt tiếng ồn lại, tiếng sột soạt trong rừng chấm dứt, và chúng tôi bắt đầu tự hỏi liệu nó có thực sự ở đó hay không. Chúng tôi không biết những loại động vật nào cư trú trong rừng sâu như thế này, nhưng chúng tôi biết rằng chúng tôi không muốn tìm hiểu điều ấy.
Khi Josh vẽ thêm vào bản đồ mà tôi đang soi sáng bằng bật lửa, chúng tôi nhận ra rằng những âm thanh kia không phải là tưởng tượng. Liên hồi và có nhịp, chúng tôi nghe
rộp
rắc
rộp
Nghe có vẻ như nó đang di chuyển xa dần khỏi chúng tôi, đẩy những cái cây trong khu rừng ở ngoài tầm bản đồ của chúng tôi. Trời đã trở nên quá tối để có thể nhìn thấy gì. Chúng tôi đã dự tính nhầm mặt trời sẽ ở lại trong bao lâu.
Dè dặt, tôi gọi.
“Xin chào”
Một khoảnh khắc ngắn căng thẳng không hơi thở khi chúng tôi nằm bất động trên mặt nước. Bầu không khí im lặng ấy đã bị phát tan bởi tiếng cười.
“Xin chào?” Josh cười khằng khặc.
“Thì sao nào?”
“Xin chào, ông Quái-vật-trong-rừng. Tôi biết ông đang lấp ló ở đâu đó nhưng có lẽ ông sẽ trả lời ‘Xin chào’ của tôi nhỉ? Xin chàoooo!”
Tôi nhận ra ngay điều ấy ngu ngốc đến nhường nào. Bất kể nó là con thú gì, nó đã không phản hồi. Tôi thậm chí đã không nhận ra mình đã nói thế sau đó, nhưng nếu có gì đó thật sự ở đó thì tôi rõ ràng đã không nhận được một câu trả lời.
Josh tiếp tục, “Xin chàoooooo,” bằng giọng giả cao.
“Xin chàooooo” tôi đáp lại với giọng nam trung mà tôi có thể.
“Hin chào bạn ưi!”
“Xin-chào. Bíp bíp!”
“XiN cHàOoOOOO”
Chúng tôi tiếp tục nhạo báng nhau, và trong khi chuẩn bị quay bè để trở lại, chúng tôi nghe,
“xin chào”
Nó là một tiếng thì thầm và có sức như thể được truyền lực bởi hơi thở cuối cùng trong một cặp phổi bị xì hơi, nhưng nó không nghe bệnh hoạn. Nó phát ra từ một điểm chỉ ở ngoài tầm bản đồ không xa, giờ điểm đó đang ở phía sau chúng tôi vì chúng tôi đã quay bè trở lại. Tôi từ từ di dời mình trên chiếc bè và quay mình hướng về phía âm thanh ấy trong lúc đang mò mẫm run rẩy cầm nến La Mã. Tôi muốn thấy.
“Cậu làm gì vậy?!” Josh rít lên.
Nhưng tôi đã thắp nó sáng. Khi dây tim cháy vào trong giấy bọc tôi giữ cây pháo hướng lên trời Tôi chưa bao giờ bắn qua chúng và nghĩ sẽ chỉ dùng chúng như súng bắn pháo sáng trong phim ảnh. Một viên sáng màu xanh lá vụt thẳng ra và bay lên về phía những ngôi sau và nhanh chóng tắt. Tôi hạ tay mình xuống thấp hơn; tôi còn nhớ rằng nó đã có nhiều màu, nhưng tôi không nhớ rõ bao nhiều lần thứ đấy bắn được trước khi nó cạn kiệt. Một viên sáng thứ hai màu đỏ bắn ra và xì xèo qua những hàng cây, nhưng tôi vẫn không thấy gì.
“Thôi kệ đi, bỏ đi thôi!” Josh nhấn mạnh, khi cậu ấy quay lại hướng về và bắt đầu quạt nước một cách tuyệt vọng.
“Một lần nữa thôi…”
Hạ tay tôi xuống nhắm thẳng vào khu rừng ở phía trước tôi, một viên lửa sáng màu đỏ khác bắn ra khỏi ống. Nó hướng thẳng cho đến khi đụng vào một cái cây, thoáng nổ ra ánh sáng với đường kính khá to.
Vẫn không có gì.
Tôi ném cây pháo xuống nước và quanh sát một viên pháo khác gặp khó khăn thoát ra khỏi ống và nhanh chóng bị dập tắt, chết ngạt bởi làn nước. Khi chúng tôi bắt đầu chèo bè về phía nhà tôi, chúng tôi nghe thấy tiếng sột soạt lớn không che giấu trong khu rừng. Tiếng cành gãy và giẫm đạp lá rơi át cả tiếng quạt nước bì bõm của chúng tôi.
Nó đang chạy.
Trong nỗi khiếp hãi chúng tôi đã phản ứng và khiến chiếc bè rung lắc dữ dội, tôi cảm nhận được một sợi dây dưới bè mình đã bị nới lỏng.
“Josh, cẩn thận!”
Nhưng đã quá trễ. Chiếc bè của chúng tôi đang vỡ ra. Không quá lâu sau đó nó hoàn toàn vỡ ra. Mỗi người chúng tôi bám vào một miếng xốp riêng biệt, nhưng những miếng này không đủ lớn để giữ chúng tôi nổi hoàn toàn và chân chúng tôi đung đưa bên dưới trong làn nước lạnh cóng mùa đông.
“Josh! Nhanh lên!” Tôi la lên trong khi chỉ vào nước bên cạnh cậu ấy.
Cậu ấy vùng vẫy, nhưng nước quá lạnh để di chuyển nhanh được và chúng tôi cùng nhìn tấm bản đồ trôi đi.
“Tớ l-l-lạnh quá.” Josh run rẩy, yếu ớt. “Ta p-phải ra khỏi n-n-nước.”
Chúng tôi bơi đến bờ, nhưng mỗi khi cố kéo mình dậy chúng tôi đều nghe tiếng thình thịch như sấm chớp tiến về phía chúng tôi một cách điên cuồng từ khu rừng ở phía trên. Cuối cùng, chúng tôi quá lạnh và yếu để thậm chí còn cố gắng được.
Chậm rãi, chúng tôi đạp chân và nhận ra mình đã đến gần khu neo bè. Chúng tôi bò lên trên mảnh phế liệu và cố kéo nó lên bờ, nhưng mảnh của Josh đã trượt khỏi và trôi đi về hướng hồ. Chúng tôi cởi bỏ đồ bơi của mình và cố gắng mặc quần áo khô để che chắn chúng tôi khỏi cái lạnh buốt giá của không khí. Tôi trượt vào quần đùi của mình, nhưng có gì đó không ổn. Tôi quay sang Josh.
“Áo tớ đâu rồi?”
Cậu ấy nhún vai rồi gợi ý, “Có thể nó đã bị rơi xuống nước và trôi ra hồ?”
Tôi bảo Josh cùng trở về nhà tôi, và nói rằng chúng tôi đang chơi trò trốn tìm nếu mẹ tôi có ở nhà. Tôi phải đi tìm áo của mình.
Tôi chạy ra sau những ngôi nhà và nhìn ra hồ nước rồi tìm kiếm dọc bờ hồ. Tôi đã nghĩ nếu may mắn mình cũng sẽ tìm được tấm bản đồ. Tôi di chuyển khá nhanh vì tôi cần phải trở về nhà, và gần như đã bỏ cuộc khi sự tập trung của tôi bị gián đoạn bởi một tiếng gọi từ phía sau mình.
“Xin chào.”
Tôi quay ngoắc lại. Đó là bà Maggie. Tôi chưa bao giờ thấy bà trong buổi tối bao giờ, và trong ánh đèn mờ ảo, bà trông xanh xao hơn bình thường. Sự ấm áp bao bọc tính tình của bà dường như đã bị làm tan biến bởi cái lạnh. Tôi không thể nhớ lần cuối tôi nhìn bà mà không có nụ cười trên môi, và gương mặt bà trông rất kỳ lạ.
“Xin chào, bà Maggie.”
“Ồ, chào Chris!” sự ấm áp và nụ cười đã trở lại, dù ký ức bà vẫn không. “Mẹ có thể nhận ra con dù có tối đến cỡ nào.”
Bông đùa, tôi hỏi bà liệu bà có muốn mời tôi vào ăn nhẹ, nhưng bà nói có lẽ để lúc khác; tôi đã quá bận rộn tìm kiếm bản đồ và áo sơ mi của mình để thật sự chú ý, nhưng bà nghe có vẻ rất vui nên tôi đã không cảm thấy tệ. Bà có nói một số điều gì đó khác, nhưng tôi đã quá xao nhãng để tập trung. Tôi chào buổi tối rồi chạy về nhà của mình. Phía sau tôi, tôi vẫn nghe được tiếng bước chân của bà trên sân cỏ đã bị đóng băng, nhưng tôi đã không quay lại và chào; tôi phải về nhà.
Tôi đã về nhà kịp trước mẹ tôi một vài phút, và cả hai chúng tôi đã kịp thay đồ trước khi bà bước vào nhà. Chúng tôi đã không bị phát hiện, dù đã để mất bản đồ.
“Không tìm thấy nó à?”
“Không, nhưng tớ thấy bà Maggie. Bà ấy lại gọi tớ là Chris. Tớ nói cậu biết này, cậu phải mừng vì không phải thấy bà ấy trong ban đêm.”
Chúng tôi cùng phá cười lên và cậu ấy hỏi liệu bà có mời tôi vào nhà ăn nhẹ, đùa rằng thức ăn hẵn phải rất tệ đến mức bà không thể cho chúng đi. Tôi bảo cậu ấy rằng bà đã không làm thế và cậu ấy đã rất ngạc nhiên, và bây giờ khi có thời gian để nghĩ về chuyện ấy, tôi cũng vậy. Rõ ràng rằng, mỗi khi chúng tôi gặp bà, bà luôn mời chúng tôi vào ăn nhẹ, và tôi khi ấy, dù có hơi mỉa mai, đã tự mời bản thân mình với bà, và bà lại từ chối.
Khi Josh đang nói chuyện về bà Maggie tôi chợt nhận ra bật lửa có thể vẫn còn trong túi tôi và sẽ là tai họa nếu mẹ tôi phát hiện. Tôi chộp lấy quần đùi đang nằm trên sàn và vỗ vào các túi; tôi cảm nhận một vật gì đó, nhưng nó không phải là cái bật lửa. Từ trong túi sau tôi kéo ra một mảnh giấy đã được gấp lại và tim tôi ngừng đập một nhịp. “Tấm bản đồ?” Tôi nghĩ. “Nhưng mình đã thấy nó trôi đi rồi mà.” Khi tôi mở mảnh giấy đó bụng dạ tôi co thắt và cố hiểu thứ mình đang nhìn. Được vẽ trong mảnh giấy đó là một hình bầu dục lớn và có hai người que đang nắm tay ở trong nó. Một người lớn hơn nhiều so với người còn lại, nhưng cả hai đều không có gương mặt. Mảnh giấy ấy đã bị rách nên nó bị thiếu một phần, và trên góc phải có số. Nó có thể là “15” hay “16”. Tôi lo lắng đưa nó cho Josh và hỏi cậu ấy có từng để nó vào túi của tôi trước đó không, nhưng cậu ấy chỉ phì cười cho ý tưởng ấy và hỏi vì sao tôi khó chịu đến vậy. Tôi chỉ vào hình que nhỏ hơn và thứ được ghi bên cạnh nó.
Nó những chữ cái viết tắt của tên tôi.
Tôi gạt bỏ suy nghĩ ấy đi và kể Josh nghe về đoạn đối thoại giữa tôi và bà Maggie. Tôi đã luôn nghĩ lần trao đổi kỳ quặc kia đều do bà bị bệnh cho đến khi nghĩ lại những sự kiện trong đầu tôi nhiều năm sau đó. Đến giờ khi tôi nghĩ lại, cảm giác buồn man mác về bà Maggie lại quay về, nhưng nó được tăng lên bởi cảm giác tuyệt vọng mờ ảo khi tôi nghĩ về lý do bà nói “có lẽ để lúc khác”. Tôi biết bà ấy đã nói gì, nhưng đêm ấy tôi đã không hiểu. Tôi đã không hiểu những lời của bà ấy có nghĩa gì nhiều tuần sau đó khi tôi nhìn thấy những người đàn ông mặc bộ đồ màu cam kỳ lạ, những bộ quần áo chống chất nguy hiểm mang những túi đen đầy rác ra khỏi nhà bà, hay tại sao cả khu phố lại bốc mùi chết chóc vào ngày hôm đó. Tôi vẫn không hiểu khi họ trưng dụng ngôi nhà và đóng nó lại không lâu trước khi chúng tôi chuyển đi. Nhưng giờ tôi đã hiểu. Tôi hiểu tại sao những lời cuối cùng của bà ấy đối với tôi lại quan trọng đến thế, ngay cả khi tôi và bà ấy đều không nhận ra về nó trong thời điểm đó.
Bà Maggie đã nói rằng đêm ấy Tom trở về nhà, nhưng giờ tôi biết ai đã thực sự chuyển vào ở đó; cũng như tôi biết vì sao tôi không hề thấy xác bà được đưa ra ngoài bằng cáng.
Những cái túi kia không chỉ có rác.