Dượng Tôi Đã Để Lại Cho Tôi Một Quán Bar Nhỏ Kỳ Quái (p3)

Đường phố buổi tối
Phần Ba: Anh Bảo Kê Của Quán Bị Đánh Đập Bởi Một Cô Bé

Quán bar của tôi là một nơi tồi tàn. Nó không chỉ thu hút một cách tự nhiên những người khách bất thường, mà còn chưa bao giờ thất bại trong việc làm tôi ngạc nhiên cho việc nó đổ nát đến cỡ nào. Một lần nọ, tôi suýt bị bong gân mắt cá chân khi vấp phải tấm ván sàn lỏng lẻo. Những người ở phòng sau luôn cố sửa chữa nơi này, nhưng trông có vẻ những vấn đề mới cứ xuất hiện từ mọi nơi. Chúng tôi sửa một bóng đèn trong phòng vệ sinh và điều kế tiếp mà bạn biết, một bóng đèn khác bị hỏng; kiểu như thế. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu bạn nói nơi này bị nguyền rủa.

Nhưng vẫn có mặt tốt của nó. Đôi khi chúng tôi tìm được những món đồ hay ho trong lúc dọn dẹp. Tiền lẻ chẳng hạn, hay trong trường hợp này, một dây chuyền bạc mỏng, lóng lánh, với một mặt pha lê. Andrik đã tìm thấy nó trong lúc đang quét sàn. Tiếng hét lớn đầy phấn khởi của May đã làm tôi chú ý đến điều ấy.

“Ô trời ơi, trông nó thật đẹp!”

“Kỳ lạ. Từ lúc nào mà những vị khách của chúng ta đeo trang sức nhỉ?” Bo nói. Anh ta ít khi nói gì, nên tôi đã ngạc nhiên vì điều ấy.

“Andrik…” May bắt đầu, kéo dài khi gọi tên anh ta với giọng ngọt như ngào đường. “Em có thể có nó không?”

“Xin lỗi, mọi thứ được tìm thấy trong quán bar đều phải được quyết định bởi chúa của chúng ta… ý tôi là quý bà.” Anh ta đưa sợi dây chuyền cho tôi và tôi đã giữ nó, cân nhắc về nó.

“Thế, một ai hẵn đã đánh rơi nó. Chúng ta sẽ giữ nó ở đây và chờ xem có ai quay lại tìm nó không,” tôi quyết định.

“Và nếu họ không đến?” May hỏi, với sự hy vọng lấp đầy trong mắt.

“Nếu điều ấy xảy ra… thì tôi sẽ đeo nó,” tôi nói, mỉm cười khi mặt cô ấy rũ xuống. “Tôi nhất định sẽ để cô có nó, nhưng tôi không muốn người khác sẽ dùng nó để giăng bẫy làm tôi bị vấp ngã thôi.” May đã làm trò đấy trong tuần trước và tôi suýt bị gãy cổ.

“Và đó là lí do cô không cắn đôi tay đang chu cấp cho cô,” Andrik nói với cô ta bằng giọng thúc đẩy, tuy là thế tôi chắc anh ta cũng muốn tôi nghe thấy. Tôi biết mình không nên giữ điều gì trong lòng nhưng điều ấy cực kỳ thoải thoã mãn. Những người ở phòng sau thích đùa giỡn. Tôi đã quen với điều ấy và Andrik cũng không hẵn là một vị thánh như anh ta hay nói – anh tã đã từng đổ hết một gói chip khoai tây lên đầu tôi – nhưng những trò đùa của May luôn có phần hơi thái quá. Một tuần trôi qua và chúng tôi đã chờ đợi một ai đó sẽ quay lại để tìm sợi dây chuyền. Rồi tuần nữa. Tôi cuối cùng đã không cưỡng lại được ham muốn tuyên bố quyền sở hữu món đồ lấp lánh này và đã đeo nó.

“Hợp với cô đấy,” Andrik nói một cách lịch thiệp và với nó, vấn đề này đã chấm dứt. Chúng tôi dần quên đi việc nó đã được tìm thấy ở đâu.

Và đó là cho đến khi tôi vào quán bar một buổi sáng chỉ để tìm nhìn thấy tất cả ghế đều bị xếp chồng lên nhau ở giữa phòng, một cột ghế lớn và vững chắc trông như một gym rừng rậm được lắp sắp xếp bởi một ai đó ghét trẻ em. Tôi đã nhắc về việc nhân viên thích chơi đùa với tôi, nhưng khi tôi ra lệnh cho họ trở về phòng sau đêm trước đó, ghế vẫn còn ở vị trí bình thường. Theo những gì tôi biết, tất cả bốn người đều không thể ra ngoài cho đến khi tôi đánh thức họ lại, nên đây chắc chắn không thể là trò đùa của họ được. Tôi đã đi vòng quanh cột ấy, quan sát nó và không tìm thấy bất kì dấu hiệu nào ám chỉ về người đã làm ra nó.

“Andrik?” Tôi gọi lớn. “Mọi người thức dậy chưa?”

Không có trả lời. Họ vẫn còn đang nghĩ ngơi, chắc là thế. Tôi đã bước đến cửa sau quầy, kéo nó mở ra và bật đèn lên. “Tinh linh của ngôi nhà, dậy mau đi cho rồi.” Tôi nhìn cả bốn người bò ra từ những bức tường. Chỉ giữa chúng ta thôi; đôi khi, tôi tự cá với bản thân xem ai sẽ ra trước hết. Lần ấy thì, Danika là người ra đầu tiên. Cô ta vươn tay ra và vẫy chào tôi rồi bước lên cầu thang, theo sát cô ấy là những người còn lại.

“Điều này mới thật,” Danika nói trong lúc nhìn đống ghế.

“Các người đã làm điều này à?” Tôi hỏi họ.

“Vì sao chúng tôi phải làm thế? Rồi cô cũng bắt chúng tôi để xếp mọi thứ lại,” Andrik trả lời.

Tôi nhún vai. Anh ta nói có lý. Nhưng điều ấy vẫn còn đáng lo ngại khi biết được họ đã không làm thế, một ai đó khác đã có cách đột nhập vào quán trong đêm trước. Chúng tôi dọn dẹp lại mọi thứ và Andrik đã bảo tôi không cần phải lo.

“Những điều kỳ lạ hay xảy ra ở đây mà,” anh ta giải thích. “Luôn luôn. Chắc không sao đâu.”

“Nếu anh nói thế.”

Đấy là một trong những sự cố thôi. Cũng trong đêm ấy, quá bar lần đầu tiên đông kín người và chúng tôi đang xem một trận bóng trên màn hình TV phẳng ở phía trên quầy. Tôi không phải là người thích thể thao, nhưng vì nhiều khách có vẻ chú ý đến nó, tôi cũng bị lôi cuốn theo một chút. Đó là khi màn hình bắt đầu chớp liên hồi và đột nhiên bị tắt. Tôi đã nghe thấy những tiếng than vãn thất vọng từ nhiều bàn và một gã nào đó đã la lớn kêu gọi tôi bật nó lên lại.

Andrik nhìn tôi với vẻ mặt bối rối trong khi với tay cầm lấy remote. Không ai trong số chúng tôi biết điều này kỳ lạ đến cỡ nào. Cái TV ấy là một thứ trong quán bar này mà chưa bao giờ làm chúng tôi thất vọng. Tôi quan sát anh ta bấm thử ngẫu nhiên các nút, rồi thử tắt TV rồi bật lên lại, nhưng nó đã không có phản ứng. Anh ta rên rỉ chán nản và nhảy lên trên quầy với sự nhanh nhẹn đáng kinh ngạc, bắt đầu mò mẫm vòng quanh ở phần sau TV. Tôi không biết chính xác anh ta đã làm gì, nhưng TV đã lại bật lên được, phát ra tiếng hò reo của trận bóng. “Rồi,” Andrik nói nhỏ trong lúc đang leo xuống. Tôi thở dài và chuẩn bị lau quầy nơi anh ta đã đứng, rồi đột nhiên, âm thanh tĩnh điện vang lên khắp phòng.

Tôi nhanh chóng liếc nhìn lên TV lại chỉ vừa kịp để thấy một gương mặt đang nhìn tôi. Tôi không thể nhận ra nhiều, chỉ đôi mắt xám. Phần còn lại bị đã bị che bởi một tấm ga giường mà người đó đã trùm quanh đầu và vai. Một giây sau, trận bóng tiếp tục. Tôi nhìn vòng quanh và hỏi những vị khách. “Mọi người có vừa thấy điều đó không?”

Một số gật đầu và vẫy tay ra hiệu như nó không đáng kể và những người khác thì thậm chí còn không phản ứng gì. Andrik nhướng mày lên nhìn tôi. Tôi chỉ lắc đầu. Tôi quyết định rằng tôi phải nên ngưng nhảy dựng lên đối với những chuyện nhỏ nhặt xảy ra ở đây. Nếu tôi lo ngại suốt thời gian ở đây, người làm của tôi sẽ không còn bao nhiêu tôn trọng dành cho tôi nữa đâu. Mỗi ngày trôi qua, những chuyện như thế cứ luôn xảy ra và nó dần trở nên nghiêm trọng hơn.

Tôi thấy những cái bàn bị lật ngửa mỗi sáng. Một lần nọ, năm trong số những chai cũ của chúng tôi giữ ở sau quầy đã bị đập, gây lãng phí một số đồ uống chất lượng cao và Chúa biết chúng tôi không có nhiều thứ như thế. Điện của chúng tôi thì luôn bị tắt và mặc dù điều ấy không lâu, chúng xảy ra đủ thường xuyên để làm người khác khó chịu. Mỗi khi tôi bật TV hay đôi khi thậm chí là điện thoại của mình, hình ảnh đôi mắt to tròn được bao bọc bởi cùng một tấm chăn trắng sẽ hiện lên trong tích tắc.

Rồi một đêm nọ, Bo đến bên tôi trong lúc tôi đang đứng ở sau quầy. “Này, chúng ta có một ai đó đang thập thò ở bên ngoài, tôi nghĩ.”

Tôi đã ngạc nhiên nhìn anh ta. “Ý anh là sao?”

“Tôi cứ luôn nghe tiếng bước chân và những thùng rác ở sau tường đã bị ngã hai lần rồi. Tôi là người đã dựng chúng lại cả hai lần. Tôi còn thấy một người đang lấp ló ở đấy, một người rất thấp và mặc một cái đầm trắng. Nếu cô muốn tôi theo dõi họ, tôi có thể, nhưng như thế sẽ không có ai trông cửa.”

Tôi cảm ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi anh ta nói thế. “Làm ơn đi kiểm tra hộ tôi. Tôi sẽ để mắt ngoài cửa trong lúc anh đi.”

“Tuân lệnh.” Bo khẽ gật đầu rồi biến mất ra ngoài.

Tôi vội ngồi xuống và kéo hộp chứa những lá thư của dượng tôi mà tôi đã cất dưới quầy. Phải thú nhận rằng tôi cũng đã hơi lười đọc thư gần đây; tôi chỉ đọc được thêm hai lá khác cho đến thời điểm đấy và không lá nào trong số chúng có những lời khuyên cho những gì cần làm khi xảy ra chuyện như thế. Tôi nhanh chóng đọc lướt qua một vài lá thư ngẫu nhiên để tìm kiếm thông tin, chỉ để không tìm thấy gì. Và đã nhận ra có lẽ dượng Mack cũng đã không biết về chuyện này để mà viết về nó, tôi đã từ bỏ và thay vào đó, tôi bước ra cửa.

Tôi ở ngoài cửa một lúc, nhưng tôi thì không giỏi việc làm bảo vệ khi so sánh với một người nhân viên tốt như Bo. Thoáng nhìn vào đồng hồ đeo tay của tôi, tôi đã chờ gần mười phút rồi. Tôi bắt đầu lo lắng. Bo đáng lẽ ra đã nên quay lại bây giờ. Dần dần, tôi hằng giọng và gọi tên anh ấy với giọng run rẩy. Không nghe thấy trả lời, ngoại trừ âm thanh lạ phát ra từ đâu đó bên cạnh toà nhà. Có một hẻm nhỏ hẹp giữ quán bar và toà nhà kế bên phải của nó. Đó là một ngõ cụt và đó là nơi đống rác Bo đã nhắc đến. Với lí do nào đó, tôi đã đoán có lẽ anh ấy bị mắc kẹt và đang cần sự trợ giúp. Thật khó để tưởng tượng chuyện gì có thể xảy ra được lên anh ta khi nhìn vào ngoại hình cao to ấy, nhưng điều ấy không phải là không khả thi.

Tôi đã quay lại sau quầy và cầm lấy một trong những cây dao bếp, giấu trong ví xách tay của tôi rồi vẫy gọi Andrik đến để giải thích chuyện gì đang xảy ra. Tôi đã bảo Andrik rằng nếu tôi không quay lại sau hai mươi phút, anh ta cần phải gọi cảnh sát nhưng hãy tránh việc tự đi ra ngoài. Thật may mắn, lúc này quán bar chỉ còn có ba khách, và họ đang tụm lại trong một góc theo dõi một ván bài. Họ có thể sẽ không để ý đến chuyện gì xảy ra.

Tôi bước ra ngoài, gió lạnh thổi lên người tôi như tạt nước. Điều này cảm giác không đúng. Tôi đã cố bước thật khẽ nhất tôi có thể. Mỗi khi gót giày của tôi chạm xuống mặt đường đá cuội bên dưới, tôi nhăn nhó và tóc sau gáy tôi dựng đứng. Tôi đã để tay sẵn trong ví, nắm chặt cán dao. Tôi đi vòng qua góc rồi nhìn xuống con hẻm. Tôi đã bị đông cứng bởi những gì tôi vừa thấy. Bo đang đứng ở cuối hẻm, ngay trước bức từng. Anh ta không di chuyển hay nói, nhưng anh ta căng thẳng, gồng mình và nhìn chằm chằm vào hình hài đang quỳ trên đất ở trước mặt anh ấy.

Ở đấy, kế bên những thùng rác bị đổ, là một bé gái. Bé gái ấy trùm kín từ đầu đến chân trong một tấm ga giường màu trắng, chỉ còn lộ đầu và bàn chân. Bé gái ấy đang nắm lấy một tấm chăn bằng một tay và lục lọi đống rác bị đổ trào ra với tay còn lại.

Mắt tôi vẫn dính chặt vào cô ấy trong mười giây nhưng vẫn có cảm giác như mãi mãi, trước khi Bo đột ngột phát ra âm thanh. Anh ta đã nhận ra tôi ở đó. Đôi mắt anh ta đảo giữa đứa trẻ trên mặt đất và tôi, và anh ta mở miệng nói không thành tiếng, ra hiệu cho tôi rời khỏi đây. Bé gái kia nhìn lên. Quay mặt về phía Bo, và khẽ nói, “Không phải tôi đã bảo anh đứng yên rồi sao?”

Anh ta ngay lập tức lại đứng hình và cô ta lại hạ thấp đầu, tập trung tìm kiếm gì đó trong đống rác. Bo giơ ngón trỏ lên môi. Tôi gật đầu. Cô ta chưa nhìn thấy tôi. Tôi không biết vì sao anh ta sợ bé gái ấy đến thế, nhưng tôi có thể nhận biết một điều gì ấy về cô ta rất sai. Không chỉ về tấm chăn của cô ấy, hay sự thật rằng cô ấy đang ở ngoài đường mà không mang giày trong thời điểm này của năm, mà còn về cách tôi cảm nhận về cô ta. Khi có một ai đó đứng cạnh bạn, bạn có thể cảm nhận được sự ấm áp và bạn có thể thấy được sự sống trong ánh mắt của họ. Điều này thật kỳ lạ khi phải nói ra và tôi không thể diễn tả nó, nhưng bạn đơn giản sẽ biết được sự hiện hữu của họ, bằng cách này hay cách khác. Bé gái này cho tôi cảm giác không phải là thật. Như thể tôi đang nhìn thấy một thứ gì đấy mà tôi không nên thấy. Cảm giác xa lạ và bất an ấy làm tôi chột dạ.

Bo chầm chậm bước những bước đi một cách thận trọng về phía tôi, đặt đế giày mềm xuống đất càng nhẹ càng tốt. Có vẻ như anh ấy đang cố gắng giữ thăng bằng trên một cây cầu cũ kỹ đang lung lay khi đang cố băng qua một con sông. Cuối cùng, khi đến được chỗ tôi, anh ta đã nắm lấy cổ tay tôi và kéo tôi trở lại lối vào của quán bar. Ngay giây phút đó, đầu cô gái quay nhìn xung quanh và đã nhìn thẳng vào chúng tôi với đôi mắt xám mở to.

“Cô là ai?” Cô ta hỏi, giọng the thé chói tai và hung hãn. Cô ấy đứng dậy, vừa kéo tấm chăn quấn chặt hơn qua vai, vừa tiến về phía chúng tôi thật chậm. Trước khi tôi có thể trả lời, đôi mắt của cô ấy nheo lại và thét lên một tiếng đinh tai nhức óc. Cô ấy lao vào tôi, ném tôi xuống đất với một sức mạnh mà tôi không thể ngờ từ cô ấy. Tôi la lên trong đau đớn khi cô ấy đẩy đầu tôi xuống nền đá và trong một hoặc hai giây, mọi thứ tối trở nên đen kịt. Tôi có thể nghe thấy giọng Bo gầm gừ khi anh ta cố kéo cô bé ra khỏi người tôi, chỉ để bị hất tung ra. Cô gái mạnh mẽ lật người tôi lại, ngã vào lưng tôi và bắt đầu cào sau gáy tôi.

“Xuống khỏi người tôi!” Tôi than vãn. “Em đang làm gì vậy?”

Đột ngột, tôi nghe một tiếng kịch, và cảm nhận được một thứ gì đó chà vào cổ tôi. Đó là khi tôi nhớ lại sợi dây chuyền. Cô bé ấy đã cố tháo nó ra. Bây giờ cô ấy đã có được nó rồi, và bò xuống khỏi người tôi. Tôi chệch choạng quay người lại nhìn lên cô ấy. Cô bé ấy đang ngồi trên đất kế bên nơi tôi đang nằm, nhìn vào sợi dây chuyền lấp lánh trên đôi tay nhợt nhạt nhỏ bé của cô ấy. Giờ đây bình tĩnh một cách đáng ngạc nhiên.

“Tạ ơn Chúa… em đã tìm nó ở khắp nơi,” cô bé nói lí nhí, có vẻ tự nói với chính mình hơn là với tôi hay Bo. “Nếu mẹ phát hiên ra được em đã mang nó ra đi chơi… nếu bà biết được em đã làm mất nó, bà sẽ rất giận dữ.” Cô bé chầm chậm nhìn xuống tôi, với một biểu cảm gì đó gần giống như một nụ cười trên gương mặt. “Mẹ yêu thích trang sức. Bà ta rất ghét khi em chạm vào chúng.” Sau đó cô ấy đứng dậy và, với sợi dây chuyền trên tay, chạy đi khỏi về phía cuối hẻm nhỏ. Cô ta đang hướng về phía bức tường và ngay lúc tưởng chừng như cô ta sắp đâm sầm vào bức tường ấy, cô bé biến mất. Cô ta không phai đi hay gì cả, một giây trước cô ta còn ở đó, và không còn nữa.

Tôi đã rướn đầu lên để dõi theo cô ta trong hai giây trước khi bắt đầu nỗ lực cố đứng dậy đã thất bại đầu tiên của mình. Toàn thân tôi đau nhức và tôi phải thốt ra tiếng thút thít. Bo chạy nhanh đến bên tôi và quàng tay xuống dưới vai tôi để kéo tôi dậy, nhưng anh ấy hơi mạnh tay làm hông tôi bùng lên vì đau. Anh ta đã xin lỗi và chạy về quán bar, quay lại với Andrik. Tôi vừa cười khúc khích vừa nhìn lên họ, đôi mắt đẫm lệ đau đớn nhưng đồng thời lại thấy thích thú một cách kỳ lạ trước sự vô lí tuyệt đối của hoàn cảnh của tôi.

“Chuyện gì đã xảy ra?” Andrik nhẹ nhàng hỏi, cuối người xuống để đỡ tôi đứng dậy.

“Hỏi Bo sau ấy,” tôi làu bàu, rên rỉ khi anh ta giúp tôi.

“Không phải cô có sợi dây chuyền trên cổ à?”

“Đó không phải của tôi. Tôi trả lại rồi.”

Cả hai vừa dẫn đường vừa đỡ tôi vào lại The New Saloon. Tôi đang trầm ngâm về việc có nên đến bệnh viện, nhưng rồi, không có gì bị gãy và theo nhìn nhận, chỉ là những vết bầm. Chúng tôi đóng cửa sớm đêm ấy và tôi đã ngồi xuống trong một góc ấm cúng của quán. Tôi đã không ngồi đấy cho đến sáng. Tôi cuối cùng đã dành thời gian ở lại quán bar nhỏ bé tồi tàn của tôi, đầu tôi tựa lên một cái bàn mà mọi người đã rất có lòng dọn sẵn cho tôi. Thật tốt khi tất cả họ đều lịch sự cùng lúc như thế. Tuy nhiên tôi đã không thể ngủ suốt đêm.

Tôi đã nhờ Danika mang bút và giấy và rồi bảo rằng họ có thể quay lại phòng và nghỉ ngơi nếu muốn. Với sự ngạc nhiên của tôi, một vài người của họ vẫn ở lại. Bo đã đi thẳng một mạch xuống lầu trong khi May ở lại để xem TV. Tôi đã mua một vài quyển sách trước đó và Danika đã mượn một quyển về kinh doanh mà cô ta đã siêng năng đọc nhiều hơn so với tôi đã từng. Andrik thì ngồi trên ghế đệm cùng với tôi và quan sát tôi đang suy nghĩ với bút và giấy.

“Cô sẽ viết gì?”

“Vì mọi người ai cũng không biết cô gái với tấm chăn ấy, tôi đã nghĩ rằng những lá thư mà dượng Mack để lại cần được bổ sung.”

Andrik cười. “Cô còn chưa đọc hết chúng mà.”

“Đúng rồi. Nhưng tôi hy vọng bất kì ai tiếp quản quán bar sau tôi sẽ được chuẩn bị tốt hơn. Và khi anh đang ở đây, anh nên giúp đỡ tôi. Anh đã biết về kẻ giả mạo, vậy anh nghĩ gì về việc này?”

Và bây giờ, trong số những lá thư đang nằm trong hộp thư từ dượng Mack là một lá thư của tôi. Tôi sẽ không ghi chép chi tiết chính xác vì tôi đã vừa ghi mọi thứ ở phần trên rồi, nhưng có một thứ tôi đã thêm vào nhờ sự giúp đỡ của Andrik:

“Có thể cô bé ấy là một poltergeist, tuy nhiên cô ta rõ ràng không bị trói buộc với bất kì ai và không gặp rắc rối hiện hình trong một thời gian dài. Người ta nói những poltergeist thường hay ám một ai đó hơn là một địa điểm, với trường hợp cô bé thì chúng tôi không rõ. Cô ta có vẻ như còn nhớ chi tiết những ký ức khi cô còn sống, nhắc lại mẹ cô ấy chính là lí do cô ta đi tìm sợi dây chuyền. Chúng tôi không biết được chính xác điều vì sao sợi dây chuyền ấy đã ở quán bar, nhưng cuối cùng thì, chúng tôi rất vui mừng vì đã loại bỏ được nó. Nên nếu bạn có tìm thấy một món trang sức trong một quán bar nơi mà trông như nó không thuộc về, hãy cất nó đi ở một nơi mà cô bé dễ tìm thấy. Và làm ơn đừng làm khó cô bé. Cô bé ấy cũng cảm thấy rất bối rối.”

Tuy nhiên đó chưa phải là lần cuối chúng tôi gặp cô bé ấy.

Phần 4

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *