Khối Chặn Giấy

Viên Đá Cuội Trên Cát

Lớn lên, mẹ đã chỉ cho tôi và em gái tập giữ thăng bằng một viên đá cuội trên trán khi chúng tôi nằm trên giường mỗi tối. Chúng tôi đã phải thật cố gắng để giữ nó ở đấy suốt đêm cho đến khi được an toàn vào buổi sáng, mẹ đã dặn chúng tôi, để tiên xấu không bắt chúng tôi đi trong lúc đang ngủ.

Tiên xấu, mẹ kể chúng tôi nghe, rất dữ nhưng không sáng dạ cho lắm, và biết rằng người ta thường đặt những khối chặn giấy – những viên đá cuội chẳng hạn – lên những vật nhẹ, và phẳng để cho chúng không bị thổi bay mất. Và vì cả hai chúng tôi đều nhỏ và nhẹ và nằm phẳng trên lưng, tiên xấu sẽ rất dễ dàng đưa chúng tôi đi như một cơn gió nếu không được dằn xuống bởi những hòn đá cuội trên trán.

Mẹ tôi luôn cố mỉm cười khi kể câu chuyện ấy, mặc dù đến giờ tôi nghĩ rằng việc ấy đối với mẹ là rất khó. Chúng tôi đủ nhỏ để tin bà ấy, đủ nhỏ để chưa biết sợ hãi, chỉ biết sợ hậu quả mỗi khi không nghe lời mẹ thôi.

Những viên đá cuội phải được đặt ở đúng nơi mà mẹ tôi có thể nhìn thấy chúng, lấp lánh thật mờ trong ánh sáng đèn ngủ ảo diệu của chúng tôi. Đây, mẹ bảo chúng tôi, là sự bảo vệ của chúng tôi.

Đôi lúc, khi chúng tôi vẫn còn đang học cách giữ thăng bằng, mẹ bôi một chút keo trắng hay kem đánh răng bên dưới viên đá cuội để giữ cho nó cố định, và chúng tôi đã phải rửa sạch nó vào mỗi buổi sáng. Chúng tôi đã không được làm gì hơn thế, không được sử dụng ruy băng, không được buộc dây, vì bất cứ điều gì tương tự thế sẽ gợi ý tiên xấu rằng đó không còn là khối chặn giấy nữa, mà chỉ là một phần nối tiếp của chúng tôi, như một vật đội trên đầu, và sẵn sàng bắt chúng tôi đi.

Claudia, ngây thơ và trong sáng, cười khúc khích mỗi khi mẹ tôi kể câu chuyện đáng sợ này và đắp mền cho chúng tôi trong phòng ngủ chung của hai chị em. Tôi cũng đã từng cười, trong suy nghĩ, nhưng rồi sau đó tôi đã đủ lớn để nhận biết được ánh mắt mệt mỏi của mẹ tôi, ánh nhìn sợ sệt, và cách mẹ đã không bỏ lỡ dù chỉ một đêm để nhắc nhở chúng tôi – khuyến cáo chúng tôi – về nghi thức trước khi ngủ, dù cho có làm tăng ca ở nhà máy và về nhà trễ, trễ hơn giờ ngủ của chúng tôi. Mẹ tôi sẽ gọi bà ngoại, sau buổi cơm tối và căn dặn bà phải nhắc nhở trình tự các thứ trước khi đi ngủ. Mẹ tôi đã nhấn mạnh yêu cầu điều ấy.

Bà ngoại tôi chỉ nghĩ rằng toàn bộ việc này thật ngớ ngẩn, bảo chúng tôi rằng mẹ tôi luôn là một cô gái nhỏ có trí tưởng tượng phong phú, rằng mẹ tôi đang nuôi dạy chúng tôi lớn lên để thành như mẹ. Nhưng dù bà ngoại có nghĩ ra sao, bà ngoại vẫn tiếp tục, đã không để ý nhiều vì xem nó như là một sự ngớ ngẩn có chủ ý tốt. Nhưng tôi đã biết.

Mẹ tôi đã cố căn dặn một điều quan trọng. Nhưng mẹ đã không kể nhiều hơn những gì bà ấy đã kể mỗi tối, mặc dù biết rằng tôi đã bắt đầu tin bà ấy và có thể đón nhận được sự thật. Có lẽ đó chính là sự thật, không hơn không kém.

Với tư cách là một người chị cả, tôi đã cố giúp đỡ và chắc chắn Claudia làm điều mà nó đã được căn dặn. Tôi đã cố thật nghiêm túc thực hiện như mẹ tôi làm.

Mặc dù vẫn còn bé khi ấy, tôi đã biết được rằng chừng nào tôi còn sống, tôi sẽ tuân theo phong tục viên đá cuội mỗi khi đi ngủ. Trong những giờ gần sáng, tôi có thể cảm nhận được sức nặng an toàn và mát mẻ trên trán mình khi đang làm công việc thường nhật. Đó chính là cảm giác đã sống sót thêm một đêm nữa.

Nó dần trở thành một cảm giác có thể trông thấy được. Gần giống như tôi có thể nhìn vào gương và thấy dấu ấn hình tròn trên da của mình. Đó là một dấu ấn của danh dự, của nghĩa vụ, của ký ức, của cuộc sống.

Bất chấp tất cả, tôi không chắc mình liệu đã nghe theo vì đã thực sự tin vào điều ấy, chí ít là không khi tôi còn bé. Gọi điều ấy là mê tín. Thói quen cũ, có lẽ thế. Hay một sự gợi nhớ về mẹ của tôi sau khi bà ấy mất, thậm chí sớm hơn cả bà ngoại. Tôi chắc chắn rằng Claudia sẽ tiếp tục theo bước chân tôi tôi, nếu nó còn ở bên tôi. Tôi có thể chắc chắn điều ấy. Nhưng tôi đã không chắc cho những điều khác.

Tôi đã không chắc rằng trong suốt thời gian qua mẹ có che giấu nghi lễ phòng hộ dưới lớp vỏ bọc trò chơi trẻ con hay không. Mẹ đã cố giữ điều ấy thật lâu khi bà ấy còn có thể, khi độ tuổi cả tin vẫn còn đeo bám chúng tôi. Mẹ đã nói rằng chúng tôi có thể ngừng làm điều ấy khi chúng tôi lớn lên, khi chúng tôi trở nên “quá lớn để tiên xấu có thể ẵm đi, dù có đá cuội hay không.”

Tôi đã không chắc liệu mẹ có đang sử dụng ý tưởng tiên xấu để che giấu điều gì khác tồi tệ hơn. Rằng mẹ đã gọi đó là tiên xấu bởi vì bà đã tin rằng trẻ em có thể hiểu được khái niệm của cái xấu. Điều ấy có mặt trong mọi câu chuyện cổ tích, thậm chí trong những câu chuyện đã được tẩy sạch những truyền thống bệnh tật ra khỏi chúng. Nhưng tôi nghĩ, bây giờ, rằng dù mẹ có đang nói thật về sự ác độc, bà ấy đã không thành thật về những điều khác. Dù cho đó thậm chí có là một tiên thật sự, vẫn đáng để đặt nghi vấn, nhưng có ác hay không thì không phải nghi ngờ gì.

Ví dụ, tôi cảm thấy điều ấy thật độc ác khi đã không để lại xác vào sáng hôm sau, trong bất cứ trạng thái nào, mà chỉ là một sự bối rối khủng khiếp vĩnh viễn, một sự mất phương hướng sâu sắc đối với bất kì người nào còn ở lại phía sau. Một vụ bắt cóc nhanh gọn và vĩnh viễn mà không có ghi chú đòi tiền chuộc, không có ghi chú nào cả.

Bạn không thể bước tiếp dù có hay không có chứng cứ của cái chết; nhưng bạn cũng không thể mãi khoá chặt vào một khoảnh khắc ấy khi bạn thức dậy vào lúc bình minh chỉ để nhận ra em gái của bạn đã biến mất, chỉ để lại viên đá cuội trên gối, nơi mà nó đã trượt khỏi trán con bé trong đêm.

Có lẽ nó đã cố tình làm điều ấy, tôi tự hỏi bản thân không ngừng kể từ đó. Ai mà không bị cám dỗ chứ? Tôi cũng đã có cùng suy nghĩ đôi lần khi còn là một cô gái trẻ, đang tuổi lớn, tò mò về ranh giới của các quy tắc mà mối nguy hiểm của chúng còn chưa rõ ràng đối với tôi.

Điều ấy thật dễ đạt được: một cái nghiêng cằm, một cái quay đầu nhẹ – và viên đá cuội, không được dán keo, sẽ trượt xuống ngay. Chúng tôi đã đủ lớn khi ấy – lần lượt là mười hai, mười bốn tuổi – chúng tôi có thể cãi lời nếu chúng tôi muốn. Chỉ có Claudia chua ngoa và ngọt ngào, đã quyết định hành động theo với thứ mà đối với tôi, nó chỉ đơn thuần là một suy nghĩ, một sự thích thú thoáng qua.

Nhưng tôi chắc rằng nếu có quay trở về từ bất cứ nơi nào mà nó đã bị đưa đến, nó sẽ tiếp tục làm những điều mà tôi đã làm. Tôi đã viết tên nó lên một viên đá cuội cùng với hình một trái tim nhỏ, và đã giữ viên đá cuội ấy trên tủ cạnh giường nhiều năm cho đến khi bà ngoại mất. Khi ấy tôi đã thật sự cô đơn, và tôi đã quyết định chôn viên đá cuội ấy thay cho xác em gái tôi.

Nhưng tôi sẽ không chôn nó kế bên nơi tôi đã chôn tro của mẹ và bà của tôi trong phần sân sau của ngôi nhà nhỏ của chúng tôi. Claudia không thuộc về nơi ấy.

~~~

Khi còn sống, mẹ tôi đã căn dặn những viên đá cuội phải luôn đơn giản, không sơn phết, hay tô điểm, và phải thật trơn tru như ngày chúng tôi nhặt chúng từ một hồ ước nguyện – ở một hồ phun nước trong một công viên cũ – đã được tạo hình thật đẹp qua những năm tháng nằm trong dòng nước chảy.

Chúng tôi đã tìm những viên đá không có tên được khắc lên; và nếu khi chúng tôi vô tình nhặt được một hòn sỏi đã được khắc tên, chúng tôi phải hôn lên nó và thả nó về lại hồ. Khi ấy chúng tôi vừa lên ba và bốn tuổi.

Chúng tôi đã giữ chúng trong nhiều năm cho đến ngày em gái tôi mất tích. Tôi không nghĩ rằng đã được kể vì sao những viên sỏi đã được khắc tên trong khi những viên khác thì không. Có vẻ rất đúng, vì nguyên nhân nào đó, như điều ấy chính xác nên là như thế.

Tôi nhớ rằng đã thắc mắc điều ấy, dĩ nhiên, và rằng liệu tôi đã từng hỏi mẹ về điều ấy, tôi không chắc. Mẹ chắc hẵn đã cho chúng tôi sự im lặng nổi tiếng của bà ấy bởi vì tôi không nhớ được câu trả lời.

Cũng tương tự như khi chúng tôi hỏi về cha của chúng tôi, người mà tôi và Claudia tuyệt đối không có một chút ký ức nào. Mẹ không bao giờ hết những câu trả lời lạc đề. Bà ngoại đã ngao ngán trả lời chúng tôi với giọng lạnh lùng rất hiếm hoi rằng đừng bao giờ nhắc đến điều ấy.

Lần ấy tôi đã khóc, vì giọng nói lạnh lùng ấy của bà ngoại, và tối hôm ấy, như thể muốn thay mặt bà ngoại và để chuộc lỗi với chúng tôi, mẹ đã kể chúng tôi nghe một câu chuyện giải thích vì sao chúng tôi không có cha. Đó là vì một tiên đã tặng chúng tôi cho mẹ khi chúng tôi còn rất nhỏ.

“Một tiên tốt ư?” Claudia nhỏ thắc mắc, và mẹ đã ngừng một hồi, nghĩ về điều ấy. Rồi mỉm cười.

“Đúng rồi, cục cưng,” mẹ nói. “Mộ…một tiên tốt.”

Mẹ tôi kể rằng bà đã cầu nguyện ở một hồ ước nguyện. Rồi sau khi có được tôi, mẹ đã rất vui mừng và đã trở lại hồ ấy hai năm sau để có thêm em gái của tôi.

Tôi rất thích câu chuyện ấy, và Claudia cũng thế, cho đến khi chúng tôi đến tuổi đủ để nhận ra được những em bé đến từ đâu và bắt đầu hiểu rõ vì sao bà ngoại đã rất thất vọng về việc chúng tôi không có cha. Vài người bạn trong lớp tôi cũng có cùng hoàn cảnh. Nhưng sự khác biệt duy nhất chính là họ không cần phải trốn bên dưới những viên đá cuội để giữ bí mật của mẹ họ.

Tôi nghĩ điều này chính là lúc Claudia đã để trượt viên đá cuội.

~~~

Nhiều năm sau buổi sáng trống vắng ấy khi tôi đã chắc rằng em gái của tôi sẽ không quay trở lại, tôi đã biết rằng cần phải khắc tên nó lên viên đá cuội mà nó đã để lại ở phía sau. Như mọi thứ khác – hồ phun nước, những viên đá cuội, tiên tốt và ác – mọi thứ đều sáng tỏ với tôi mà không cần lời giải đáp.

Tôi đoán mình đã thừa hưởng từ mẹ tôi và “trí tưởng tượng” của bà ấy.

Bà ngoại đã tin rằng Claudia đã bỏ nhà đi; theo một cậu con trai cùng lớp, người mà nó đã trao nụ hôn đầu. Nhưng sự không trùng khớp thời gian đối với tôi rất kỳ lạ, và không ai ở trường, thậm chí bọn con trai, cũng không hay biết gì đến nó.

Chúng tôi đã không có kẻ khả nghi để báo cáo với cảnh sát, không có manh mối cho đội tìm kiếm. Không có động cơ, không dấu vết, không có giải đáp. Chỉ một viên đá cuội. Và điều ấy, tôi không thể lý giải. Không thể làm được khi không lặp lại, đúng chính xác từng từ, những câu chuyện cổ tích mà mẹ thường kể để giải thích nguyên nhân của việc đang diễn ra. Và những câu chuyện cổ tích thì không phải là thứ nên kể cho cảnh sát nghe nếu bạn muốn họ tin rằng bạn đang nghiêm túc. Nên tôi đã không nói gì.

Tôi đã ngủ nhiều ngày và khóc nhiều đêm. Đôi khi tôi thức giấc và cảm giác sức nặng dịu dàng của viên đá cuội trên trán mình, được giữ thăng bằng hoàn hão sau nhiều năm luyện tập, rồi liếc nhìn qua bên, nhìn xuyên qua ánh đèn đêm, để xem liệu em gái tôi có trở lại nằm kế tôi. Đôi lần tôi nghĩ tôi đã thấy một cái bóng.

~~~

Trong một đêm nóng ngạt tháng sáu, tôi đã để cửa sổ mở, một điều cấm kỵ khác của mẹ. Giấc ngủ của tôi đã trở nên đứt quãng, và tôi đã có thói quen dậy nhiều lần buổi tối, để kiểm tra liệu rằng Claudia có trở lại.

Đêm ấy, tôi thức giấc và thấy lớp màn vải được thổi vào trong một cách nhẹ nhàng, khe khẽ, bởi ngọn gió mùa hạ giống như có ai đó đang thở vào phòng. Tôi đã chờ để nó hạ xuống để có thể nhìn thấy giường của em gái tôi ở đối diện giường của tôi trong căn phòng nhỏ chung của chúng tôi, bên cạnh bức tường đối diện.

Tấm màn ở giữa đã che mất tầm nhìn của tôi về phía giường em gái tôi, và cuối cùng khi gió ngừng thổi, nó hạ xuống, tôi nghĩ rằng mình đã thấy một bóng người. Một chiêu lừa bịp của não tôi, đang tuyệt vọng muốn được thấy Claudia.

Nửa mê, tôi đã nghiêng đầu nhẹ sang bên, thật cẩn thận, cố để dõi theo cái bóng ấy, và viên đá cuội của tôi đã bắt đầu trượt.

Theo phản xạ, tôi đã đưa tay lên để giữ nó thăng bằng lại trên trán mình. Nhưng khi vừa làm thế, bàn tay tôi đã cạ phải một thứ gì đó lạnh, lạnh bất thường so với cái nóng của đêm ấy. Cảm giác ấy như một túi không khí khô lạnh buốt, chỉ đang lơ lửng bên trên hòn đá cuội, như thể một bàn tay ma nào đó đã với đến nó cùng lúc với tôi, cạ những ngón tay lạnh giá của nó vào những ngón tay của tôi.

Tôi nhanh chóng ngồi dậy, với viên đá cuội đang được nắm chặt trong tay, rồi quay lách người để mở đèn ngủ của mình. Trong phòng không có gì khác lạ, và tấm màn lại được thổi nhẹ bởi hơi thở của màn đêm. Em gái tôi đã không trở lại. Tôi lại hoàn toàn cô đơn.

Trong ngăn kéo của tủ cạnh giường, tôi đã tìm thấy một chai keo nhỏ mà mẹ đã dùng khi chúng tôi còn rất nhỏ. Chai keo ấy đã được sử dụng gần hết, và những gì còn lại đã gần như bị khô hoàn toàn, nhưng vẫn còn một chút đủ để trấn an tôi.

Tuy nhiên, tôi đã không thể ngủ lại được. Với đôi mắt nhắm nghiền, cố để ngủ, tôi có thể cảm nhận được một cơn gió nhẹ đều, mát mẻ đang thổi lên viên đá cuội đang nằm trên trán mình và mà không ở nơi nào khác, như thể một thứ gì đó đang cố thổi viên đá ấy ra khỏi tôi, hay đang cố kiểm tra khối lượng của nó. Tấm màn thì không di chuyển; vì tôi đã đóng cửa sổ lại rồi.

Sau vài đêm, điều ấy lại xảy ra lần nữa, tôi vội chạy ra khỏi phòng, khóc trong sự sợ hãi. Viên đá cuội đã suýt rơi khỏi trán mặc dù cửa sổ vẫn đóng và tôi đã không di chuyển một cơ nào trên người. Keo đã không còn có tác dụng, và tôi không thể giữ ấm mình trong sự se lạnh đột ngột ấy, hai tay tôi không thể ngừng run rẩy.

Tôi đã chạy một mạch đến phòng bà ngoại, nơi mà bà ngủ cùng mẹ khi họ còn sống.

Bà ngoại vẫn còn sống vào thời điểm ấy, nếu bạn xem điều ấy là còn sống. Bà đã hầu như không thể biết được đã tỉnh giấc từ lúc nào, nhưng đã đủ minh mẫn để nhận ra tôi khi tôi chạy vào phòng trong tâm trạng hoảng loạn, không muốn ở một mình.

Bà ngoại đã vuốt tóc tôi khi tôi tựa đầu khóc trên đùi bà, không hỏi nguyên nhân, có lẽ đã không nhận ra được có điều gì đã sai. Có lẽ bà tin bà đã biết nguyên làm tôi hoảng sợ. Chuyện này đã xảy ra chỉ vài tuần sau khi Claudia mất tích, một vài tuần dài nhất của đời tôi. Đã không còn lạ khi tôi thức giấc và đã khóc trong đêm.

Khi tôi bình tĩnh lại được, tôi tiếp tục nằm lên đùi bà, mơ hồ. “Bà ơi, bà có tin rằng tiên có thật không?”

Bà gõ vào đầu tôi, một lần, thông minh —pak— như đang có ý nói, Con không nên nhắc lại chuyện ấy.

“Bà có tin không?” Tôi hỏi lại.

“Con không nên cầu xin gì từ bọn tiên,” bà chỉ trả lời một cách đơn giản và dứt khoát. “Chúng không bao giờ thật sự cho đi thứ gì. Chúng luôn lấy lại những gì thuộc về chúng.”

Tôi đã im lặng về điều ấy. Thoạt đầu, câu trả lời của bà ngoại có vẻ không liên quan gì đến câu hỏi của tôi, nhưng khi tôi nghĩ kĩ về nó, câu trả lời có lẽ đã quá rõ ràng đến nỗi bà ngoại đã không muốn nhắc lại. Thay vào đó, bà đã trả lời cho câu hỏi mà tôi chưa hỏi, mà tôi chưa nghĩ đến.

Bốn năm sau, bà ngoại đã ra đi trong yên bình khi đang ngủ. Tôi đã tìm thấy bà vào buổi sáng.

Không lâu sau, tôi đã đến thăm hồ phun nước cũ – hồ ước nguyện, nơi tôi đã được sinh ra – trong công viên đã bị bỏ hoang. Tôi đã hôn lên viên đá cuội được khắc tên em gái tôi rồi đặt nó xuống làn nước xanh mờ có nhiều rong rêu, giữa những cái tên của những đứa trẻ khác mà tiên xấu nghĩ rằng họ đủ nhẹ và phẳng để hơi thở của một em bé, hay một ngọn gió ấm mùa hạ, có thể thổi đưa họ đến miền đất hứa.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *