Maria Trên Mặt Trăng

sao phương bắc

“Mẹ có biết rằng các nhà thiên văn học đã nghĩ rằng trên mặt trăng có biển không?” Tôi hỏi, nhìn lên từ quyển sách của mình.

Mẹ tôi chuyển mình trên giường của bà, một mớ ống truyền dịch di chuyển theo. “Tất nhiên. Mặt trăng dường như là nơi hoàn hảo để tìm thấy một đại dương.”

“Thật đáng tiếc chúng ta chưa bao giờ tìm thấy nước,” tôi nói. “Vì những đại dương giả kia, các nhà thiên văn học đã gọi chúng là ‘maria.’”

Mẹ tôi mỉm cười. “Họ thật ngọt ngào khi lấy tên của mẹ để đặt tên cho những đại dương trên mặt trăng.”

“Thì, họ đã không tìm thấy đại dương nào cả,” tôi nhắc lại.

“Có thể họ chỉ chưa tìm đủ kỹ thôi,” bà trả lời, một tiếng cười thoát ra khỏi môi bà.

Cho tất cả nỗi đau bà đang trải qua, tất cả nỗi sợ mà bà có lẽ đang cảm nhận, mẹ tôi luôn có nụ cười có thể thắp sáng một ngọn nến. Chúng tôi đang ở trong phòng bệnh viện của bà, cùng phòng mà chúng tôi đã ra vào trong vòng một năm rưỡi gần đây. Đôi khi chúng tôi có bạn cùng phòng, đôi khi chúng tôi ở một mình. Bà luôn giữ vững tâm lý cho cả hai chúng tôi, là tảng đá mà tôi buộc chặt hy vọng của mình vào, là bức tường chống lại nỗi đau mất mát mà tôi biết sắp đến.

Ung thư là một từ trần tục cho một thứ gì đó đói khát và tàn nhẫn. Tôi đã để ý thấy y học làm thế rất nhiều lần, che đậy những điều khủng khiếp bằng những từ ngữ phức tạp như phủ một tấm chăn giường lên một cái xác.

Ác tính. Không thể phẫu thuật. Di căn. Giai đoạn cuối.

Nhưng khi bà cười… khi bà cười chúng tôi như không còn trong bệnh viện nữa, chúng tôi như trở về nhà. Khi bà cười, bà như không còn bệnh, bà trẻ lại, và tôi được trở lại là một đứa trẻ, và cả thế giới là một nơi tươi sáng đang chờ đợi để được khám phá. Mẹ tôi thật là một phép màu. Căn bệnh ung thư đã lấy đi quá nhiều từ bà, già đi và làm tổn hại bà, nhưng nó không thể nào cướp đi nụ cười của bà. Đó là điều duy nhất chỉ mẹ tôi được quyền giữ.

“Chúng ta hôm nay sao rồi?” vị bác sĩ hỏi. Ông ngày càng ít vào thường xuyên hơn. Chúng tôi có thể cảm nhận được đây là lần cuối cùng ở lại trong căn phòng này.

“Cực tốt, thưa bác sĩ,” mẹ tôi nói, gặp khó khăn để ngồi thẳng lên. “Chúng ta vẫn có thể đi khiêu vũ cuối ngày nếu anh muốn. Tuy nhiên tôi phải hỏi xin phép con tôi đã. Từ khi cha nó mất, Brian bảo vệ tôi rất kỹ.”

Tôi tỏ thái độ nghiêm khắc. “Cháu cần phải biết ý định của chú là trong sáng, bác sĩ Bradshaw.”

“Như là tuyết trên mặt đường đầy xe,” ông hùa theo. “Nhưng tôi cần phải suy nghĩ lại cho buổi khiêu vũ, cô Willen. Tôi không còn trẻ như trước nữa.”

Ông đang nhấn mạnh tuổi của mình, đưa những ngón tay lướt qua mái tóc bạc xám của mình. Mẹ tôi khẽ chạm tay lên đầu bà.

“Tôi cũng không kém anh đâu,” bà nói.

Bác sĩ Bradshaw mỉm cười nhưng tôi có thể thấy ông đang cảm thấy phiền muộn. Tôi đã thấy ông nhìn qua một thần tượng nhỏ mà tôi đặt trên tủ đầu giường của mẹ tôi. Tượng may mắn đấy là một cây sồi thu nhỏ được điêu khắc từ đá soapstone. Có bốn gương mặt được khắc vào thân cây, một vật canh gác chống lại bệnh tật và những linh hồn cay đắng. Tôi có thể thấy cây sồi đá ấy khiến vị bác sĩ khó chịu. Thành thật mà nói, tôi đã gặp khó khăn khi nhìn vào thần tượng điêu khắc ấy cho hơn vài giây. Mỗi khuôn mặt đều có nét biểu cảm sống động. Khuôn mặt gần giường của mẹ tôi đang cười hiền hậu và khuôn mặt hướng về phía cửa đang gầm gừ, nhằm xua đuổi sự nguy hiểm.

Hai gương mặt còn lại đều khóc lóc. Cả bốn hình ảnh ấy trông cũng rất giống người, quá thô. Có một điểm kỳ lạ về cây sồi điêu khắc ấy khiến người ta khó chịu nhưng tôi đã quen dần với bất kỳ sự kỳ lạ nào mà bạn có thể tưởng tượng. Phía gia đình của mẹ tôi có đầy rẫy nhưng câu chuyện về sự may mắn không có lời giải thích và những bi kịch bí ẩn, thì thầm những bí mật và những cái chết không có lời giải. Dù gì thì, bà ngoại tôi hoặc có thể là một phù thủy trung thực với lòng tốt hoặc là một người hoàn toàn điên rồ hạng nặng, hoặc cả hai. Có lẽ là cả hai.

Cây sồi đá là từ một hộp đựng những di vật của bà tôi mà tôi tìm thấy trên gác mái hồi đầu tháng. Có thể đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng mẹ tôi dường như đã khá hơn một chút khi tôi mang vật hộ thân này vào, ít nhất là trong một thời gian ngắn.

Tôi đang mơ mộng về lịch sử gia đình và chiếc hộp lạ khi bác sĩ Bradshaw kiểm tra biểu đồ của ông và ghi chép tình trạng sức khỏe của mẹ tôi.

“Tôi có thể nói chuyện với cậu một lúc được không?” Ông hỏi, kéo tôi về với thực tại. Bác sĩ Bradshaw cố giữ giọng nói nhẹ nhàng nhưng tôi biết rằng ông sẽ không có tin tốt.

Hành lang bệnh viện có mùi ammoniac và bánh sinh nhật. Một ai đó hẵn đã tổ chức tiệc sinh nhật, có thể là một bệnh nhân, có thể là một y tá. Thật kỳ lạ khi bạn nhớ những chi tiết không đáng kể mà cùng lúc đấy, cả thế giới đang đổ sập xung quanh bạn.

“Tôi rất lấy làm tiếc,” bác sĩ Bradshaw nói. “Kết quả sáng nay cho thấy nó đang lan ra rất nhanh. Chúng tôi… chúng tôi đã cố giữ nó lại bằng tất cả khả năng của mình, Brian. Mẹ của cậu là một chiến binh. Nhưng bây giờ chúng ta cần phải, cố giữ cho bà cảm thấy thoải mái hết mức trong khả năng của chúng ta. Brian?”

Bức tường ấy đang nứt, sự đau buồn đang chờ đợi ở phía bên kia, nặng nề và lạnh giá như một ngôi nhà trống vắng. Tôi đã biết nhiều tháng trước đây sẽ là kết quả nhưng nó vẫn rất đau khi tận tai nghe thấy. Đau hơn so với khả năng chứa đựng của tôi.

“Không còn cách khác nữa sao bác sĩ?” Tôi hỏi, cố kìm nén cảm giác thôi thúc nôn mửa của mình. “Bất kì thứ gì, phương cách thử nghiệm, chưa qua kiểm chứng, bất cứ thứ gì?”

Bác sĩ Bradshaw lắc đầu. “Rất tiếc. Đôi khi chúng ta thật sự không còn cách nào khác nữa. Cô ấy đã chiến đấu rất kiên cường.”

“Vậy mẹ tôi còn bao lâu nữa?” Tôi hỏi, nhìn lại vào phòng. Bà đã ngủ say.

“Không còn lâu. Có thể vài ngày. Cậu có bao giờ cân nhắc về chương trình chăm sóc cuối đời?”

Mùi ammoniac và bánh sinh nhật. Tiếng bíp của máy đo nhịp tim trong phòng mẹ tôi. Tôi cố tập trung lên thế giới xung quanh tôi. Hy vọng của tôi vẫn chưa chết. Nếu thuốc men không cứu được mẹ tôi, có thể một thứ gì đó lâu đời hơn sẽ làm được. Tôi nghĩ về hộp đồ của bà ngoại đang chờ trong gác mái. Có rất nhiều thứ ở đó mà tôi vẫn chưa thấy qua, sổ ghi chép và nến và những bí mật và những thứ bị quên lãng. Có thể sẽ có cách cứu chữa hay ít ra một cách nào đó để kéo dài cuộc chiến.

“Không,” tôi nói. “Nếu tất cả những gì còn lại có thể làm là để bà cảm thấy thoải mái, tôi muốn mang bà bề nhà.”

Bác sĩ mỉm cười. “Tôi hiểu. Chúng tôi có thể cho cậu thuốc, những cách để giúp cô ấy với những cơn đau.” Ông đặt tay lên vai của tôi. “Mẹ cậu đã trải qua rất nhiều đau đớn nhưng cô ấy sẽ sớm có sự thanh thản. Cậu đã làm mọi thứ cậu có thể.”

“Tôi biết,” tôi nói dối. “Cảm ơn bác sĩ.”

Mẹ tôi sống trong một ngôi nhà nông trại nhỏ cách thị trấn mười dặm. Không có nhiều hàng xóm bên cạnh một khu rừng và một nhánh sông len lỏi qua sân nhà của bà. Đó là một buổi chiều tháng ba ấm áp nhiều gió khi tôi đưa người mẹ đang hấp hối của mình về nhà. Đêm đó tôi bắt đầu công việc của mình. Tôi định biến ngôi nhà của mình thành một boongke, một mê cung mà Cái Chết sẽ không bao giờ giải được. Tôi sẽ giữ cho mẹ tôi được an toàn, tôi sẽ tìm cách để cho mẹ sống sót.

Cuốn sổ nhỏ màu đỏ có chứa đầy những ý tưởng. Một nơi có dòng nước đang chảy chắc chắn là một điểm khởi đầu tốt. Nhánh sông sau nhà hầu như không đáng kể nhưng nó sẽ cung cấp một phần bao quát phía nam của khu nhà. Tiếp theo là muối, rải khắp các ô cửa và khung cửa sổ, rồi thành một vòng tròn không gián đoạn xung quanh toàn bộ ngôi nhà. Bước này phải được lặp lại hàng ngày, cuốn sổ đỏ nhấn mạnh, hoặc thậm chí nhiều lần mỗi ngày. Ngay cả một cơn gió cũng có thể tàn phá mọi thứ với bất kỳ lượng muối nào được đổ ra ở ngoài, vì vậy tốt nhất là luôn luôn theo dõi và đổ lại sau mỗi vài giờ. Nước và muối là những biện pháp phòng thủ phổ biến chống lại kẻ thù lâu đời nhất của con người và được nhiều người biết đến. Cuốn sách đưa ra những lời khuyên khác, ít thông thường hơn.

Tôi đã mất gần một tuần để hoàn thành chạm khắc những biểu tượng và ký hiệu lên tường, sàn, và thậm chí những cây cối trong khuôn viên nhà. Vào khoảng giữa trưa ngày thứ ba, khi đang nằm trên lưng mình khắc những dấu ấn lạ trên mặt dưới của sàn nhà, tôi đột nhiên cảm thấy mình đang hành động ngốc nghếch đến nhường nào. Không có bất kì bằng chứng trong cuốn sổ đỏ cho thấy nó không là gì khác ngoài những điều huyên thuyên đầy ảo tưởng của một người phụ nữ kỳ dị mà tôi chỉ gặp một hoặc hai lần khi còn nhỏ. Đối với những gì tôi biết, những chữ rune được dùng để xua đuổi Cái Chết thực ra là một danh sách tạp hóa được viết bằng tiếng Quảng Đông. Nhưng tôi đã tuyệt vọng, và mỗi lần tôi nhìn thấy mẹ tôi, bà trông yếu ớt hơn, mong manh hơn. Vì vậy tôi tiếp tục chạm khắc và cầu nguyện và xây dựng nhiều lớp bảo vệ chồng lên những lớp bảo vệ khác để giữ cho Cái Chết ra xa.

Việc chạm khắc những dấu ấn khiến tôi đi vòng quanh khắp nơi trong khu nhà. Nó là một sân lớn, gần ba mẫu và hòa dần vào khu rừng xung quanh. Tôi đã không thể định vị được chính xác ranh giới chia cách đất trồng trọt khỏi đất rừng, những phần rìa đơn giản chảy lên nhau, nhưng tôi đã cố hết sức để tạo ranh giới với những đường kẻ giữa những ký hiệu. Tôi luôn yêu thích sự hoang dã ở đây, cách mà bạn có thể đi lang thang hằng trăm thước khỏi nhà và cảm giác như bạn đã du hành hàng trăm năm vào quá khứ để đến một nơi nào đó ban sơ. Đây là một sân chơi hoàn hảo cho một đứa trẻ, dù tôi có ra ngoài khám phá những đường mòn hay đi bẫy cá tuế, hay dành cả mùa hè để xây một ngôi nhà trên cây khác, tự thuyết phục mình đây sẽ là căn nhà cuối cùng. Nó không hề như thế, tôi đã không bao giờ thõa mãn.

Bản thân ngôi nhà, dù nhỏ, vẫn khá rộng rãi cho hai mẹ con tôi. Cha tôi mất khi tôi lên bảy. Tôi không có nhiều ký ức về ông, chỉ nhớ rằng ông rất cao, với nụ cười ấm áp và đôi tay tôi nghĩ có thể ẵm trọn cả thế giới. Mẹ tôi hay nói tôi giống cha tôi. Tôi có thể thấy điều ấy trong những bức ảnh cũ của ông, chúng tôi có cùng đôi mắt, xanh như rêu trong mùa hè, và có cùng mái tóc đỏ, kẻ thù của những chiếc lược trên hành tinh này. Khi bệnh tình càng trở nặng, mẹ hay gọi nhầm tôi với tên cha tôi. Tôi lo lắng khi bà dần trôi đi như thế nhưng một phần của tôi cũng đã hãnh diện vì bà nhầm lẫn tôi với ông ấy.

Sau khi mọi ký tự đã được khắc, còn một vài bước cuối cùng trong cuốn sổ cần được thực hiện để ngăn cản Cái Chết. Còn một số bùa và vật thiêng ở trong hộp cũ trong gác mái. Tôi ngồi trên đấy lục lọi tất cả mọi thứ bà ngoại đã để lại, tham khảo cuốn sổ đỏ, đẩy những cái bùa nhỏ vào trong đống ngăn nắp. Không có thần tượng nạo lớn hơn ngón tay cái của tôi. Một số bằng sắt và một số khác bằng gỗ, một số nặng hơn số còn lại. Tất cả chúng đều khó nhìn và thật khó chịu khi chạm vào.

Căn phòng gác mái xập xệ nhưng điều ấy không đủ để giải thích cho cơn lạnh ập vào người tôi khi tôi sắp xếp những lá bùa. Tôi không phải quá cao nhưng gác mái cho tôi cảm giác như nó được thiết kế cho những con búp bê, dầm thấp đến nỗi tôi không thể thậm chí di chuyển khi cúi người. Tôi chỉ có thể bò quanh trên đầu gối, sàn ván gỗ thô ráp đe dọa những mảnh gỗ vụn mặc dù tôi đang mặc quần jeans. Tôi có thể mang những hộp đó xuống lầu nơi tôi có nhiều khoảng trống hơn nhưng suy nghĩ ấy đã lấp đầy tôi bằng cảm giác bất an sâu sắc. Có vẻ tốt hơn hết nên để hộp ấy lại trong gác xếp, chỉ nên mang xuống những vật cần thiết. Ở trên này, ít ra, những món đồ của bà ngoại tôi, di sản của bà… được cách ly.

Cuốn sổ đỏ ghi chép rất chi tiết về cách bố trí những vật tổ vòng quanh trong ngôi nhà và khu vực. Tôi cẩn thận đi vòng quanh sân sau của mẹ, giày ủng bì bõm vào sâu và ra khỏi bùn, với một cái la bàn trên tay. Trời mưa gần như mỗi ngày từ khi tôi đưa mẹ về nhà từ bệnh viện. Tôi biết rằng nó hầu như chắc chắn là một sự trùng hợp nhưng không thể ngừng thắc mắc liệu những tấm màn mưa mềm mại rơi lên đất là dành cho bà. Tôi đặt những mảnh bùa trong một hoa hồng la bàn lại cùng với ngôi nhà ở giữa. Các đồ vật đáng sợ khác được trao cho những vị trí danh dự ở từng hướng hồng y.

Nước, muối, vật tổ, bùa, tất cả đều được đặt cẩn thận, có chủ đích. Cuốn sổ của bà ngoại hứa rằng những thứ ấy sẽ cung cấp một số mức độ bảo vệ chống lại Cái Chết không thể tránh khỏi. Các biểu tượng sẽ làm nó bối rối, các lá bùa sẽ làm nó phân tâm, và nước và muối tạo ra các rào cản để làm chậm nó lại. Nhưng Cái Chết vẫn có thể tìm thấy một kẽ hở nào đó để lách qua, vì vậ cuốn sách đỏ đã đề xuất một mẹo cuối cùng.

Ở dưới đáy hộp có một cây nến, màu trắng và bị ố vàng như giấy cũ. Khi tôi lấy cây nến ấy từ hộp của nó, mùi của nó bốc ra khiến tôi muốn nôn mửa. Bạn có bao giờ đi ngang qua một nhà vệ sinh di động trong một ngày cực kì oi bức của mùa hè? Khi trời nóng đến nỗi, phần nhựa xanh bắt đầu bị cong dẻo và nổi lên những bong bóng rộp trên bề mặt của nó? Tưởng tượng mùi hương đó được cô đọng lại thành một thanh sáp có chiều dài một ngón tay. Tôi mang cây nến ấy xuống lầu, đặt nó trên bàn ăn và đốt nó sáng lên.

Phần lõi cháy ngay tức khắc, ngọn lửa đang tỏa ra một màu đỏ nâu bất thường. Nó không tỏa nhiệt và thậm chí có vẻ mát hơn khi tôi đưa tay đến gần ngọn lửa. Khi sáp bắt đầu chảy, mùi hương nó phát ra còn tệ hơn gấp mười lần khi nó ở trên phòng gác mái. Tôi đã bị sặc và cố nén xuống chất lỏng nhơ nhớp bệnh hoạn đang dâng lên đến cổ mình rồi nhanh chóng rời khỏi phòng, đóng hai cánh cửa Pháp lại trên đường ra khỏi đó. Như thế sẽ giúp chặn mùi hôi lại nhưng tôi vẫn không thể rũ bỏ cảm giác buồn nôn. Tôi đi kiểm tra tình hình sức khỏe của mẹ tôi.

“Con có nhớ ngày con bỏ nhà đi không?” mẹ tôi hỏi, ngồi trong giường của mình, thức ăn trưa trên bàn cạnh giường vẫn chưa được chạm vào.

Tôi không nghĩ bà còn cân nào để mất nữa trước khi trở thành không gì khác ngoài xương và ký ức. Da của bà như bánh tráng nằm trên thứ trông có vẻ như là một bộ khung đang bị thu nhỏ sau từng ngày. Nhưng mặc cho phần còn lại của bà có trở nên mỏng manh đến mấy, đôi mắt bà vẫn như hai chiếc đèn lồng nhỏ trong bóng tối, màu xanh lam và sáng, và đầy sức sống.

“Con đã không thể đi quá xa,” tôi trả lời. “Và con không hoàn toàn định bỏ đi, chỉ là… duỗi chân một chút thôi.”

Mẹ cười. “Con nói với mẹ là con sẽ đi đến rạp xiếc. Con muốn muốn trở thành một người huấn luyện sư tử hay một lực sĩ hay là một người ăn lửa.”

“Con nghĩ con muốn trở thành tất cả gộp lại. Con của hồi trẻ rất thích làm nhiều công việc cùng lúc.”

Mẹ tôi trở người để bà có thể nhìn ra ngoài cửa sổ về phía sân. “Mẹ đã rất sợ khi tìm thấy thư của con, nói là con sẽ bỏ đi. Tay mẹ đã run như con không thể tin được khi mẹ gọi cảnh sát và rồi ông Jonas ở cuối đường. Cảm giác như tất cả mọi người đều tìm con cả gần cả nửa một đêm, dù rằng đã mất không quá một tiếng đồng hồ để tìm thấy con bị lạc trong rừng, lang thang vòng quanh và run cầm cập. Con thậm chí còn đã không mang theo áo khoác.”

Tôi ngồi cạnh giường mẹ tôi. “Đúng rồi, con đã không chính xác tính trước cho cuộc tẩu thoát đến rạp xiếc của con. Con nhớ… con nhớ đã từ bỏ ý tưởng ấy nhanh chóng nhưng con không thể tìm được đường về. Con rất vui mừng vì mẹ đã tìm thấy con.”

“Mẹ cũng vậy,” mẹ tôi nói và tôi thấy bà gạt đi một giọt nước mắt. “Mẹ rất vui. Trong một tiếng đồng hồ con bỏ đi, Brian, đó là lúc mẹ cảm thấy sợ hãi nhất trong đời. Sợ rằng sẽ không thể tìm thấy con, sợ rằng con sẽ bị thương hay tệ hơn. Mẹ gần như không thể thở vì sợ. Và rồi, đột nhiên, con ở đấy và sự nhẹ nhõm gần như khiến mẹ ngất đi. Mẹ nghĩ là chúng ta đã cùng thức cả đêm hôm ấy để ngắm nhìn trời sao. Mẹ muốn chắc chắn con biết được cách tìm Ngôi Sao Phương Bắc phòng trường hợp con lại bị lạc.”

Bà quay lại với tôi, đặt một bàn tay gầy ốm của mình lên tay tôi. Vẫn còn nước mắt đọng lại trong đôi mắt nhưng bà đã trao một nụ cười như ngọn hải đăng trong đêm cho tôi và, trong một lúc, tôi thấy được bà như trước kia, giống như trong đêm ấy khi mà tôi đã bỏ nhà đi và mẹ tôi đã tìm thấy tôi.

Tôi nắm chặt tay bà. “Con cũng rất sợ. Con đã sợ rằng mình sẽ bị mắc kẹt ngoài đấy. Điều gì khiến mẹ nghĩ về chuyện ấy?”

“Thì, mẹ cũng nghĩ nhiều về cái chết gần đây và-“

“Đừng,” tôi ngắt lời. “Đừng nói như thế. Mẹ sẽ không đi đâu cả, không đi đâu sớm cả.”

“Không sao đâu,” bà nói, nắm chặt tay tôi lại. “Không sao đâu. Mẹ biết nỗi sợ thật của mình rồi và thứ mẹ đang cảm nhận bây giờ… nó không như thế. Mẹ vẫn sợ, đoán là thế, nhưng mẹ chấp nhận điều ấy rồi. Mẹ đã có một cuộc sống tốt đẹp. Mẹ rất vui mừng vì đã gặp được con, được làm mẹ của con.”

“Con cũng thế.” Tôi thì thầm, giọng tôi vỡ ra khi thốt lên từng từ.

Nhưng con sẽ không để mẹ đi khi không cố chiến đấu, tôi lặng lẽ nói thêm trong suy nghĩ mình.

Một thứ gì đó đang cố bắt mẹ tôi đi. Sự kỳ lạ bắt đầu sau ngày tôi đốt nến. Đầu tiên là tiếng nổ lách tách, những điều sai mà tôi đã lưu nhớ lại trong suy sự tưởng tượng của mình. Những cánh của tôi biết mình đã đóng lại đã mở toang sáng hôm sau. Thức ăn bắt đầu thối rữa và bị ôi thiu trong vòng vài ngày sau khi tôi mang về nhà. Cuối cùng, thức ăn sẽ lập tức bị thiu hầu như ngay lập tức. Cách mỗi giờ, TV trong phòng khách sẽ hoặc tắt nếu nó đang được bật, hay mở lên nếu nó đang tắt.

Đồng hồ sẽ ngừng chạy trong buổi tối, luôn ở lúc 3:03 am. Những cái bóng bắt đầu kéo vào trong góc phòng mà không phụ thuộc vào bất kì nguồn sáng nào. Những cái bóng ấy rất cứng đầu và chúng sẽ nán lại rất lâu mỗi khi tôi nhìn chăm chú, và rồi biến mất khi tôi chớp mắt. Tôi bắt đầu nghe tiếng lục đục và tiếng gõ trong những giờ khác nhau và đôi lúc, khi tôi vào trong một căn phòng trống, tôi có thể chắc chắn rõ ràng, nó thứ gì đó vừa mới ở trong.

Tôi đã tránh phòng ăn ngoại trừ kiểm tra nó hai lần mỗi ngày để xem liệu nến có còn cháy hay không. Mùi của nó thật nặng và luôn tìm ra cách để bò vào cổ và lổ mũi bạn mỗi khi nó có cơ hội. Tôi đã giữ cửa vào phòng đóng kín và đặt những máy xịt mùi thơm ở khắp các phòng bên cạnh và cho chúng chạy suốt 24/7. Điều hài hước nhất chính là, cây nến ấy không bao giờ hết, thậm chí không hề có dấu hiệu bị rút ngắn. Tôi có thể thấy sáp của nó chảy xuống nhưng ngày qua ngày, cây nến ấy từ chối sự thay đổi.

Ngày dẫn đến tuần và những sự sai trái chỉ ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Tôi và mẹ đều mất ngủ bởi những cơn ác mộng mà chúng tôi không thể nhớ khi tỉnh dậy. Chỉ những giọng nói văng vẳng ở lại nhưng cũng đã đủ để khiến nhịp tim tôi đập thật nhanh cho đến khi trời sáng. Tôi bắt đầu ngủ trên ghế trong phòng mẹ tôi. Tôi làm thế để trấn an bà khi bà tỉnh dậy bối rối trong đêm nhưng cũng là vì, nếu tôi phải nói thật lòng, tôi quá sợ để ngủ một mình. Tôi cảm thấy mình như một đứa bé chạy vào phòng của cha mẹ cậu, thuyết phục họ rằng ở dưới gầm giường có một con quái vật. Chuyện là, có lẽ… dưới gầm giường có quái vật thật.

Đến tuần thứ ba tôi không còn giữ cửa đóng được. Chúng sẽ mở toang ngay trong khoảnh khắc tôi vừa rời khỏi phòng. Âm thanh cào cấu kinh khủng bắt đầu phát ra từ bên trong những bức tường. Tôi nói với mẹ tôi đó có thể chỉ là những con sóc hay chuột, nhưng âm thanh ấy quá dứt khoát, không như âm thanh đi luẩn quẩn của loài gặm nhấm, giống như một con chó đang cố cào cửa để được vào trong. Tôi ngừng ra khỏi nhà để mua thức ăn dự trữ; thay vào đó, tôi đã thuê người giao vừa đủ phần thức ăn mà chúng tôi cần mỗi ngày. Tôi giữ những tấm màn phủ cửa sổ lại. Có những âm thanh gõ lên mặt kính mỗi đêm.

Khoảng một tháng sau khi rời khỏi bệnh viện, chúng tôi sống như những thây ma. Phòng khách không thể chứa đựng mùi hương của nến nữa. Toàn bộ ngôi nhà bị nghẽn bởi mùi hôi. Những âm thanh nhỏ giờ đây trở thành những tiếng cười, la thét và thì thầm trong những căn phòng xung quanh chúng tôi. Khi tôi đang tắm, một thứ gì đó đã đạp cửa phòng tắm mạnh đến nỗi bản lề của nó đã bị cong vòng. Tôi đã che lại tất cả những tấm gương trong nhà. Tôi bắt đầu thấy nhiều thứ trong góc đang nhìn lại về phía tôi, với nửa gương mặt bị ẩn đi, những hình dáng trượt đi mỗi khi tôi quay về phía sau. Mẹ tôi thì dần trôi dạt ngày một xa hơn. Bà giờ đây hay có những lúc bối rối lâu dài và bà hay quên tên tôi, quên mất rằng chúng tôi đang ở đâu. Đôi khi, bà nhầm tưởng tôi là bố tôi. Những lần khác, bà chỉ nhìn lên tường hàng giờ, trở nên nhợt nhạt hơn sau từng ngày như một thước phim được đặt bên dưới ánh nắng.

Nhưng bà vẫn còn sống.

Rõ ràng rằng chúng tôi đang bị công phá bởi một thứ gì đó. Thế giới tôi bị thu gọn lại chỉ còn môt phòng và mỗi chuyến đi vào phòng tắm hay mở cửa để nhận thức ăn cảm giác như đi dọc các chiến hào. Những âm thanh tiếp tục trở nên tồi tệ hơn và tồi tệ hơn, những bóng đen dần tiến đến gần hơn, cảm giác của những chuyển động trong nhà trở nên rõ nét hơn. Đôi lúc tôi có thể cảm nhận được hơi thở ấm phà vào phía sau cổ tôi hay bước ngang qua một mảng không khí lạnh đang lơ lửng. Tôi đã không còn quan tâm vẽ lại những đường muối quanh nhà. Tôi biết, tận sâu trong xương tủy, miễn sao cái nến còn cháy, Cái Chết sẽ không thể bắt được mẹ tôi đi.

Ngày thứ ba mươi ba sau khi rời khỏi bệnh viện, tôi bị đánh thức bởi một cơn ác mộng, và phát hiện giường mẹ tôi trống rỗng. Bà đã không thể bước trong suốt nhiều tuần, nên cảm giác đầu tiên của tôi là sự hy vọng rằng sức khỏe bả đang trở nên tốt hơn, ít nhất là một chút. Nhưng rồi tôi nhận ra mùi hôi mà chúng tôi đã quen sống cùng giờ đây không còn nữa.

“Mẹ!” Tôi la lên, chạy xuống phòng ăn.

Tôi đã thấy bà đang đứng ở phòng ăn, cửa rộng mở. Bà đang đứng cạnh bàn, mỏng manh như một con bù nhìn bị bỏ rơi, lắc lư tới lui. Đôi tay bà đang lơ lửng trên cây nến. Ngọn lửa đã bị dập tắt.

“Tại sao mẹ lại làm thế?” Tôi thì thầm. “Mẹ? Mẹ… mẹ có sao không?”

Tôi bước vào phòng, sàn gỗ lạnh cóng. Mẹ tôi không phản ứng với sự hiện diện của tôi, bà chỉ tiếp tục lắc lư. Tôi nhận ra rằng bà vẫn còn ngủ.

“Mẹ?” Tôi khẽ lắc vai bà. “Tỉnh lại đi.”

Đầu bà bật ngửa về sau và gần như té xuống. Tôi đã nhanh chóng đỡ được bà. Cảm giác như bà không có cân nặng gì cả.

“Chuyện gì vậy?” Bà hỏi, nhìn xung quanh căn phòng tối. “Ở đâu…”

“Mẹ ổn rồi,” tôi nói. “Mẹ đang mộng du.”

“Mẹ đang có một giấc mơ rất bất thường,” mẹ tôi nói nhỏ. “Có rất nhiều sao và…”

Bà bắt đầu run rẩy một cách không kiểm soát. Cơn lạnh đã đến với tôi ngay sau đó. Tôi thở một tiếng kinh ngạc. Ngôi nhà trước đây đã lạnh nhưng phòng ăn giờ cảm giác như ở Bắc Cực vậy. hơi thở của tôi hình thành nên một màn mây mỏng trước mặt tôi. Tôi có thể nhận thức sâu sắc về sự im lặng hoàn toàn bao trùm ngôi nhà.

Khi tôi nghe tiếng cào cấu. Nó phát ra từ trong khắp ngôi nhà, những âm thanh xé toạt trên tường ở xung quanh phòng ăn. Và tiếng bước chân kèm theo sau ngay lập tức, nặng nề, và nhanh. Một nơi nào đó trong nhà, một cửa sổ đã bị đập nát.

“Brian,” mẹ tôi gọi, trong khi đang bám víu ôm lấy tôi.

“Đừng sợ,” tôi nói, “mọi thứ sẽ-“

Giọng nói của tôi đã bỏ rơi tôi khi một cái bóng lớn xuất hiện ra từ góc phòng. Nó có hình dáng của một người đàn ông nhưng rất cao. Và nó rất nhanh. Trước khi tôi kịp la lớn, bóng đen ấy đã tiến đến chúng tôi, bao phủ lên mẹ tôi. Trong khoảng cách của một nhịp tim đập, bà đã biến mất.

“Không,” tôi thì thầm, cào lên cái bóng đang dần tan rã nơi mẹ tôi đã từng ở đó. “Không, không, không, không, KHÔNG.”

Cái bóng ấy biến mất như một vũng nước thấm lên sàn nhà. Để lại một kết cấu, sền sệt và quá trơn để có giữ lại.

Tôi nghĩ về mẹ tôi trong đêm bà tìm thấy tôi đi lạc trong rừng, trong đêm mà tôi đã bỏ nhà đi. Gương mặt bà lấp đầy ký ức của tôi, nụ cười của một ngọn hải đăng. Tôi nhớ sự nhẹ nhõm khi bà tìm thấy tôi, tình yêu ngập tràn. Tôi cố níu giữ cảm giác ấy, ôm chặt nó vào lòng.

“Ngươi không thể có được bà,” tôi thì thầm.

Tôi nắm tay mình để cố níu lại những sợi cuối cùng của cái bóng ấy. Có một cảm giác kéo tồi tệ. Như thể tôi vừa mới nắm được đuôi của một con ngựa và nó đang cố rũ bỏ tôi. Nhưng tôi đã giữ chặt.

Một cảm giác giằng co. Nó là một dòng chảy siết có tâm trí của riêng nó. Nhưng tôi đã cố gắng Nó không thể lay chuyển tôi.

Nhiệt độ đang hạ xuống theo từng giây và tôi cảm nhận được tầm nhìn của mình dần tối đi. Dòng suy nghĩ cuối cùng trong đầu tôi trước khi ngất đi chính là lời hứa với bản thân mình dù có chết cũng sẽ giữ thật chặt. Tôi sẽ không để mạng sống của mẹ tôi trượt đi mất. Mọi âm thanh và ánh sáng phai dần đi, thu hẹp lại thành một lỗ kim nhỏ và rồi tối đen.

Tôi tỉnh dậy bên dưới một bầu trời đầy sao. Tôi đang nằm trên một đồng cỏ, vẫn mặt quần ngủ và áo thun cũ của mình. Trời mát, dù tôi đang ở đâu, thoải mái. Tôi đứng dậy. Xung quanh tôi là những hàng cây, cao và sát, đan lại với nhau bởi bóng những cái bóng. Ngay lập tức cạnh bên phải tôi, có một con đường chạy thẳng tắp kéo dài đến cuối tầm nhìn của tôi, mờ đi ở cuối đường chân trời. Nhưng những ngôi sao ấy, chúng trông không giống như bất kì thứ gì tôi đã từng thấy trước đó.

Những dải ruy băng của nguồn sáng phương Bắc đang gợn sóng ở trên tôi trong màu xanh lá, lam và tím. Những ngôi sao chiếu sáng bầu trời như hàng triệu những chiếc đèn lồng đang trôi trên mặt đại dương tĩnh lặng. Mặt trăng chiếu sáng rõ nhất, một đốm sáng được treo ở phía trên những hàng cây, gần đến nỗi tôi nghĩ rằng mình có thể vươn tay ra để xoa lên mặt của nó.

“Ngươi thật cứng đầu,” một giọng nói cất lên từ khu rừng sau lưng tôi.

Tôi quay ngoắc lại nhưng không thể thấy ai. Và rồi một đốm đen bắt đầu hiện rõ tách khỏi sự u ám. Hình bóng đó tự tách ra và tiến về phía tôi. Tôi nhận ra nó ngay lập tức là cái bóng từ phòng ăn. Khi đến gần hơn, nó lớn dần lên cho đến khi chạm đến được bầu trời và chặn mất tầm nhìn của tôi. Một nỗi sợ hãi sâu thẳm ập đến trong tôi nhưng tôi vẫn giữ vững lập trường của mình.

“Trả mẹ tôi lại cho tôi,” tôi la lên.

Hình bóng ấy thu lại khỏi bầu trời và rồi nó đang đứng trước mặt tôi, hình dáng và kích thước của một người đàn ông cao lớn. Nhưng thay vì là một cái bóng, vật đó đã bao bọc lấy những vì sao. Những chòm sao thu nhỏ trôi khắp cơ thể nó, chậm rãi như một đoạn video timelapse của bầu trời đêm đầy sao. Sáng nhất trong số chúng chính là Ngôi Sao Phương Bắc, xanh và ấm áp. Khoảng cảnh giữa những ngôi sao hoàn toàn đen như mực, không là một cái bóng mà là sự thiếu hụt ánh sáng. Nó như là một điều đẹp đẽ, và đáng sợ nhất mà tôi từng được chứng kiến.

“Các người là ai?” Tôi khẽ hỏi.

“Ngươi biết,” nó trả lời.

“Xin hãy trả bà ấy lại cho tôi,” tôi cầu xin. “Làm ơn, hãy trả bà lại cho tôi.”

Ta không thể. Đã đến lúc của bà ấy rồi. Quá thời gian rồi. Ngươi đã khiến ta bị trì hoãn. Ngươi khiến bà ta bị trì hoãn.

Tôi nắm chặt bàn tay. “Bà ấy đã không có đủ thời gian. Tôi đã không có đủ thời gian. Điều này không đúng, nó thật không công bằng.”

“Tất nhiên là nó không công bằng,” thứ đầy sao nói, “nhưng nó là điều đúng. Mỗi người các ngươi đều có một khoảng thời gian, và khi hết giờ, ta sẽ đến, và phía bên kia có một con đường, và chúng ta sẽ cùng bước trên nó.”

“Đi đến đâu?” Tôi hỏi. “Các người định đưa bà đi đâu?”

“Ta không biết. Ta không được phép biết đầu ấy, chỉ biết cách để đến nơi ấy.”

“Thế thì tôi sẽ không thể để các người mang bà đi.” Tôi đứng chặn đường. Thế giới xung quanh chúng tôi trở nên yên tĩnh và không di chuyển. Những chòm sao trôi dạt như những áng mây và một cơn gió nhẹ nhàng làm khuấy động những cành cây.

Vật đầy sao kia im lặng một hồi.

“Mẹ của ngươi rất tốt bụng và chu đáo. Bất kì nơi nào bà đi, bà sẽ được thanh thản,” nó hứa.

“Nhưng-“

Con vật giơ tay của nó lên. “Ngươi có bao giờ ngừng và nghĩ rằng Cái Chết không phải là một kẻ thù? Cái Chết chỉ đơn giản tồn tại. Nó là một cộng sự tự nhiên của cuộc sống. Nó không có thành kiến hay ác ý, không có tham vọng. Mẹ của ngươi đã phải mất quá lâu – để chịu đựng, trải qua quá nhiều đau đớn. Thay vì để bà yên nghỉ, ngươi tự ý kéo dài mạng sống của bà vượt quá giới hạn của nó. Ngươi giữ bà sống nhưng với cái giá phải trả chính là bà trở nên yếu đi, kéo dài bệnh tình của bà, khiến bà bị loãng đi. Ngươi có đang giữ mạng sống của bà vì lợi ích của bà hay của ngươi?”

Tôi không thể trả lời.

“Việc kéo dài một mạng sống là không tự nhiên, nguy hiểm,” nó nói tôi biết. “Trong những tuần ngươi giữ ta khỏi nhà ngươi, ngươi đã gây sự chú ý đến những vật cổ, những thứ đói khác, những thế lực không muốn gì tốt hơn ngoài việc nuốt chửng ký ức của mẹ ngươi, để xé toang và cắn cho đến khi không còn lại gì ngoài nỗi đau và sợ hãi và một sự trống rỗng hoàn hảo.”

Tôi rùng mình khi nhớ lại những âm thanh cào cấu, tiếng cửa sổ bị đập vỡ, và tiếng cười từ những căn phòng trống.

“Tôi xin lỗi,” tôi khẽ nói. “Chúng… chúng có thể làm hại bà từ đây không? Bà có an toàn không?”

Những ngôi sao trong cái bóng cháy sáng lên trong một khoảnh khắc. “Mẹ của ngươi sẽ không bước trên con đường của bà một mình. Không ai trong tất cả các ngươi sẽ làm thế. Ta đi cùng các ngươi, luôn luôn, cho đến cuối đường.”

“Tôi có thể được gặp lại bà không?” Tôi hỏi. “Xin làm ơn? Hãy, tôi… hãy để tôi nói lời từ biệt.”

Nó suy nghĩ trong nhiều giây. “Ngươi thật cứng đầu.”

Và rồi thứ đầy sao đã biến mất. Tôi đang đứng một mình trên con đường trống.

“Brian?”

Tôi quay lại và thấy mẹ tôi đang đứng ở sau mình trên đường. Trông bà trẻ hơn, khỏe mạnh hơn so với khi tôi nhìn thấy bà trong nhiều năm nay. Sự mỏng manh đã không còn và mẹ tôi trông giống hệt như trong ký ức tôi từ lúc bà tìm thấy tôi trong khu rừng nhiều năm trước.

“Đây có phải là một giấc mơ đẹp nhất không?” bà hỏi, nhìn lên bầu trời đầy sao.

“Đúng rồi,” tôi nói, cố giữ vững giọng nói của mình. “Một giấc mơ đẹp. Con thương mẹ. Con thương mẹ rất nhiều, rất rất nhiều.”

Bà mỉm cười rồi chạm tay lên gò má tôi. “Mẹ cũng rất thương cơn. Đừng khóc, mọi thứ sẽ ổn. Mẹ sẽ tỉnh lại ngay bây giờ. Mẹ sẽ gặp lại con.”

Tôi gật đầu, gạt hết nước mắt sang bên. “Chắc rồi, con sẽ gặp lại mẹ.”

“Con nghĩ sẽ có gì ở cuối con đường này?” bà hỏi. “Con có nghĩ mẹ sẽ có đủ thời gian để biết được trước khi tỉnh dậy không?”

Tôi nhìn lên con đường ấy, quan sát về phía khu rừng cho bất kì bóng tối đói khát nào. “Con không biết nữa, con không biết nó sẽ dẫn đến đâu, nhưng… hãy hứa với con là mẹ sẽ cẩn thận nhé.”

Mẹ tôi cười tươi hơn. “Tất nhiên là mẹ sẽ cẩn thận.”

“Và bà sẽ không đi một mình,” giọng nói quen thuộc cất lên từ phía sau chúng tôi.

Tôi quay lại, mong chờ sẽ lại nhìn thấy vật đầy sao kia. Nhưng người đang ông đang đứng trên đường hoàn toàn bình thường. Ánh sáng từ mặt trăng đủ sáng để tôi có thể thấy ông có đôi mắt xanh rêu và mái tóc đỏ rực.

“Ôi, một giấc mơ tuyệt đẹp,” mẹ tôi thốt lên.

Người đàn ông ấy bước đến bên chúng tôi và cầm tay mẹ tôi. Ông và tôi trông thật giống nhau, tôi có thể thấy vì sao mẹ tôi đã nhầm lẫn chúng tôi khi bà ốm.

“Hãy chăm sóc mẹ,” tôi nói với người đàn ông. “Tôi… hãy làm ơn bảo vệ bà, hãy chắc chắn bà đến được nơi bà cần đến. Có nhiều thứ ngoài kia, muốn ăn thịt bà, muốn làm hại bà, đó, nó, là lỗi của con, con xin lỗi, con rất xin lỗi-“

Người đàn ông đặt tay và bóp vai tôi. “Bà sẽ ổn, và sẽ được bảo vệ. Nếu chính Ác Quỷ đang ở phía trước hắn sẽ phải tránh đường. Hoặc hắn sẽ bị dịch chuyển.”

Tôi tin lời ông.

Những suy nghĩ lướt qua trong đầu tôi. Có quá nhiều thứ tôi muốn nói, những câu hỏi, một triệu lời từ biệt. Tôi muốn kéo dài khoảnh khắc này càng lâu càng có thể trong khả năng của mình nhưng tôi nhận ra mình đã làm trì hoãn mẹ mình đủ lâu rồi.

“Con thương cha mẹ,” tôi nói với cả hai. “Tạm biệt.”

Tôi tỉnh dậy trong phòng ăn khi đang ngồi cạnh bàn, đèn cầy trước mặt tôi chưa được thắp sáng. Ngôi nhà yên thật tĩnh lặng. Không còn âm thanh cào cấu, không có tiếng động hay bất kì dấu hiệu của sự sống. Tôi đi vòng quanh qua từng phòng. Ngôi nhà trống rỗng. Chỉ còn một mình tôi.

Tôi đã dành nhiều tháng sau đó trùng tu lại ngôi nhà, xóa đi những dấu ấn mà tôi đã khắc, sửa lại khu đất. Nhiều đêm tôi thường hay tản bộ vào trong rừng. Tôi ở đủ xa ở đất nước đến nỗi vào những đêm trời quang mây tạnh, bầu trời trông như một biển sao. Tôi nghĩ về bố mẹ mình nhiều nhất trong những lần đi dạo ấy, tôi đau buồn và tưởng nhớ họ theo cách của riêng mình. Và tôi tự hỏi con đường của họ đi sẽ dẫn họ đến đâu, liệu họ có đang bước đi trên con đường ấy hay liệu họ đã đến được nơi họ cần đến.

Tôi hy vọng rằng con đường ấy sẽ đưa họ đến những nơi đẹp đẽ. Khi tôi tản bộ trong đêm, tôi nhìn lên Ngôi Sao Phương Bắc để giữ cho mình không bị lạc. Có thể họ cũng làm điều tương tự.

Khi trăng tròn, tôi cũng nhìn lên nó. Tự hỏi liệu cha mẹ mình có dịp để đến thăm nó hay không, để tìm những đại dương được ẩn giấu. Tôi muốn nghĩ rằng họ đã làm thế, rằng mặt trăng có ít nhất một Maria, người tôi yêu thương nhất.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *