Những Quy Tắc Của Khách Sạn Magnum

khách sạn magnum

Vào tháng mười của năm ngoái, tôi đã nộp đơn xin việc làm nhân viên phục vụ khách sạn, và cuộc phỏng vấn có một số quy tắc đặc biệt. Tôi đã thất nghiệp từ tháng tám, như nhiều người khác, và cơ hội này đã xuất hiện trong một cuộc trò chuyện tại một quán bar.

Tôi đã sống nhờ trong phòng khách của một người bạn cao đẳng lúc tôi hai mươi hai tuổi. Chúng tôi quyết định gặp bạn gái của anh ấy chỉ để có lý do ra ngoài và uống rượu cùng với những người bạn cùng ký túc xá cũ của cô. Quy định ngoài trời và sức chứa giảm xuống còn năm mươi phần trăm khách cho phép đã được kéo giãn hết mức ở Hoboken. Sự thay đổi duy nhất kể từ khi đại dịch xảy ra chính là không ai còn được ngồi ở quầy và họ đã bố trí ít bàn hơn, đồng nghĩa với việc chỗ ngồi cùng bàn trở nên chật chội hơn.

Đó là cách tôi đã gặp Katherine. Trong sự huyên náo, nhóm tôi vội vàng tìm chỗ ngồi với một số người bạn mà chúng tôi đã quen biết. Katherine đang trò chuyện với Jill, bạn của tôi khi mọi người chật vật nhường chỗ cho chúng tôi, và cô ấy đã do dự không muốn di chuyển trong quá trình xáo trộn chỗ ngồi. Khi mọi người đã ổn định chỗ ngồi, bạn cùng phòng của tôi đã cùng Jill đi đến một bàn khác, và Katherine đã bị mắc kẹt lại cùng với chúng tôi. Katherine là một cô gái tóc vàng xinh đẹp với đôi mắt nâu to tròn và chắc chắn là một trong những người chị em trong hội nữ sinh của Jill.

Khi chúng tôi bắt đầu chào hỏi nhau, Katherine đã im lặng, tất nhiên là do cảm thấy ngượng ngùng và bị bỏ lại. Tôi đoán rằng cô ấy chỉ quen mình Jill, nên tôi đã chủ động lịch sự bắt chuyện với cô ấy. Dĩ nhiên, chỉ có một giới hạn các chủ đề để hai người lạ có thể thoải mái nói khi mới gặp mặt. Và hỏi thăm về công việc của cô ấy là điều khó tránh đối với tôi.

“Tôi làm việc ở Magnum,” cô ấy nói như thể tôi biết đó là đâu.

Công bằng mà nói, hầu hết những người bạn của tôi khi lấy bằng kinh doanh và có được công việc phân tích tài chính thuộc dạng nào đó đều trả lời câu hỏi ấy theo cách tương tự. Chuyên ngành sinh học của tôi thì không mang danh tiếng của bất kỳ công ty nào. Khi tôi hỏi, cô ấy nói rằng đó là một khách sạn sang trọng trong thành phố.

“Tôi đã nghĩ những khách sạn thì không làm ăn được lắm vào thời buổi này,” tôi nói.

“Đó là nơi mà khách đủ giàu có thể bao nhiều tầng đến tận sáu tuần,” Katherine giải thích. “Chúng tôi không mấy quan ngại về lưu lượng khách. Lương tốt. Tiền bồi dưỡng cũng khá ổn đấy. Vấn đề lớn nhất là sự thiếu hụt nhân viên từ khi… anh biết đấy.”

Con voi mang tên ‘thất nghiệp’ khổng lồ trong căn phòng mà tất cả những công nhân trẻ như chúng tôi từ chối thừa nhận đang lơ lửng giữa chúng tôi. Tôi đã dành cả đêm còn lại để trò chuyện cùng cô ấy về khúc côn cầu, và nắm rõ được rằng cô ấy là một fan hâm mộ của đội Devil.

Tôi đã không túng quẫn và tuyệt vọng đến nỗi cân nhắc công việc phục vụ khách sạn cho đến một tháng trước khi khoản tiền tiết kiệm vốn đã thảm hại của tôi teo tóp lại thành gần như không còn gì và không có triển vọng nào khác xuất hiện trong lĩnh vực của tôi. Tôi nhìn chằm chằm vào lon cá ngừ cuối cùng của mình và, mặc dù Brian không hỏi, nhưng tôi biết tôi nên trả tiền thuê nhà hoặc dọn đi. Tôi sẽ không chuyển đến ở với ông bố khó tánh của tôi và mẹ tôi thì vừa bán nhà để trang trải chi phí bệnh viện. Tiền, bất kỳ từ đâu, đều được. Tôi đã quyết định thử vận và nhắn tin cho Katherine, với hy vọng cô ấy sẽ không quá bị xúc phạm vì đây là lần đầu tiên tôi liên hệ cô ấy kể từ khi chúng tôi gặp nhau.

Tôi đã nhận lại một tin nhắn tự động có nội dung rằng tôi đang nhắn tin cho một số điện thoại bàn.

Tôi đoán rằng cô ấy đã cho tôi số giả. Một phần trong tôi cảm thấy điều ấy thật thú vị. Tôi đã gọi điện, nửa mong đợi một máy tự động cho tôi biết rằng nó sẽ kết nối tôi đến tận mặt trăng trong hệ thống từ chối. Đây sẽ là một giai thoại nhỏ vui nhộn để kể với Jill nếu điều ấy xảy ra, và, có thể, là một điều đáng lo cho các kỹ năng xã hội của tôi. Nhưng không. Sau hai tiếng đổ chuông, Katherine đã bắt máy.

“A lô?”

“Ô! Xin chào,” tôi nói, ngạc nhiên khi nghe giọng cô ấy ở đầu dây bên kia. “Katherine? Đây có phải là Katherine không?” Ngay khi ấy tôi chợt nhận ra rằng mình đã không nhớ họ của cô ấy. “Ừm… từ quán bar trong buổi họp mặt hội chị em của Jill Delaney đúng không. Tôi là Jesse đây, tiện thể.” Mượt mà như giấy nhám.

“À, tôi nhớ. Anh ổn không, ở bên đấy, Jesse?”

“Ừm, tôi chỉ là không nghĩ rằng cô sẽ bắt máy bàn đấy.”

“Đúng rồi,” cô ấy trả lời một cách ngượng ngùng. “Tôi quên mất. Họ không cho phép chúng tôi sử dụng điện thoại di động ở đây, nên tôi hay có thói quen đưa số điện thoại công việc cho người khác. Xin lỗi nhé. Anh có thể gọi tôi là Kat mà.”

“Kat, ok. Cô đang làm việc à. Tôi có thể gọi lại sau, hay cô có thể gọi cho tôi, hay-“ Tôi đang nghe thấy bản thân đang làm lớn chuyện từ một câu hỏi đơn giản. “Tôi có một câu hỏi về công việc của cô… liệu cô còn tuyển nhân sự không- ý tôi là Magnum. Kiểu, liệu nơi ấy còn… thuê nhân viên không?”

Tôi lại nghe bản thân mình bắt đầu lảm nhảm một cách lo lắng và tự hỏi tại sao mình vẫn chưa chết ngắt vì xấu hổ. Thế nhưng, sau mớ hỗn độn ấy, Katherine đã không cúp máy. Cô ấy thậm chí còn nói rằng sẽ hỏi quản lý về những công việc sắp mở.

Tôi đã không nghe lại gì trong hai ngày sau cuộc gọi ấy và hầu như đã quên mất về nó khi anh bạn Brian của tôi buông tập hồ sơ manila lên đùi tôi. Nó được gửi cho tôi, mặc dù tôi thường hay để địa chỉ thư của mình đến địa chỉ của mẹ tôi ở Miền Nam Jersey. Nhưng, nó đã ở đó. Khi tôi mở nó ra, bên trong là một lá thư giới thiệu nhỏ được đánh máy trên mặt giấy có chất liệu hơi nhám.

Gửi Jesse Faulks,

Sự hứng thú được tham gia vào đội ngũ chăm sóc khách hàng của The Magnum. Chúng tôi đã được giới thiệu về thông tin của anh và tin rằng anh phù hợp với những mục tiêu của khách sạn chúng tôi.

Chúng tôi muốn được gửi lời mời anh để có một buổi phỏng vấn chính thức và thảo luận thêm về kỹ năng của anh và năng lực có liên quan đến những bước tiến xa hơn.

Xin hãy có mặt ở địa chỉ sau không trễ hơn mười giờ sáng vào ngày thứ bảy ngày 10/10/2020.

Trước buổi phỏng vấn của anh, hãy chắc chắn nghiên cứu những quy tắc sau trước khi đến và hãy chuẩn bị sẵn sàng khi đến.

1. Nếu anh lái xe đến, anh có thể đậu xe ở bãi phía đông trong những ô đậu màu xanh. Không được đậu ở những ô màu trắng hay ô được dành riêng cho khách.

2. Anh sẽ vào bằng cổng phía đông. Nếu anh không nhận ra bất kỳ dấu hiệu nào, trên cửa lối vào đúng có một con đại bàng được chạm lộng bằng đồng.

a. Nếu cánh cửa mở rộng, bước vào và tiếp tục theo chỉ dẫn 3a.

b. Nếu cánh cửa đóng lại, bước vòng đến cổng phía nam có một tượng phụ nữ trang trí và tiếp tục theo chỉ dẫn 3b.

3. Hãy mang theo một bản sao của hồ sơ xin việc.

a. Khi anh đến qua trường hợp được miêu tả ở 2a, một nhân viên khách sạn sẽ đón anh ở đó. Hãy đưa người tiếp tân tóc vàng áo khoác và nón và những vật dụng cá nhân khác của anh, nếu anh có mang theo, và gửi lại các thiết bị điện tử trên người anh vào hộp ở trên bàn nhỏ bên cạnh gương.

b. Khi anh đến qua trường hợp được miêu tả ở 2b, anh sẽ bước vào một mình. Đặt các thiết bị, tương tự, vào hộp trên bàn nhỏ nhưng không có gương ở bên cạnh. Để lại mọi vật dụng cá nhân như ví, túi xách tay, ba lô, những thiết bị đo tính thời gian, bóp, chìa khoá, giấy, sổ tay, sách, viết mực, viết chì và mũ lên ghế cạnh bàn. Anh có thể giữ áo khoác trên người.

4. Tiếp tục bước đến phòng 002N trên bản đồ được cung cấp. Xin hãy dành thời gian để nhớ đường đi của anh, anh sẽ không được phép nói chuyện với nhân viên hay khách trong bất cứ trường hợp nào. Không tương tác hay rời khỏi hướng đi trực diện.

5. Khi đến nơi, gõ hai lần. Bước vào khi anh nghe thấy hai tiếng gõ lại.

6. Nếu anh đến trong trường hợp 2a ở trên, ngồi lên ghế bên trái. Nếu anh đến trong trường hợp 2b, ngồi lên ghế đằng sau bàn của người phỏng vấn anh. Trong trường hợp hiếm hoi khi tất cả ghế đều không trống, đứng ở góc trái. Trong trường hợp hiếm hoi khi chỉ có một ghế, đứng ở góc trái.

7. Nếu chỉ có anh và người phỏng vấn, anh sẽ tự giới thiệu bản thân mình trước với câu: “Thật là một ngày tuyệt vời khi được ra ngoài nhiều hơn, thật đáng yêu khi được gặp anh. Tôi là (họ tên của anh), ở đây cho vị trí tuyển dụng.” Nhưng nếu anh bước vào qua trường hợp 2b, anh có thể giới thiệu theo cách của riêng anh.

8. Nếu còn ai đó ở trong phòng, anh phải chờ đến lượt của mình để được nói. Nếu có một phụ nữ trong phòng đang mặc bộ đồ màu xanh, hay một người đàn ông với một cọng lông vũ trong túi ngực trái của ông ta, đừng trả lời họ dù họ có nói gì với anh. Nếu có một người đàn ông đang đội nón, nhìn ngay xuống sàn và đừng bao giờ nhìn vào ông ta trong khoảng thời gian còn lại khi ông ta vẫn còn ở trong phòng. Nếu có một người đàn ông mặc đồ đỏ, không được nói hay xác nhận tên họ của anh trong suốt cuộc phỏng vấn. Khi được yêu cầu trả lời trong nhóm này, câu anh sẽ nói với người phỏng vấn là “Thật là một vinh hạnh khi được biết anh, tôi rất hào hứng cho cơ hội để trở thành một phần của đội lừng lẫy của Grand.”

9. Buổi phỏng vấn sẽ chính thức bắt đầu, hãy trả lời các câu hỏi một cách trung thực, trừ những điều đã được đề cập ở trên.

10. Anh không được phép rời khỏi phòng khi chưa có sự cho phép.

11. Khi bước ra, anh sẽ chờ cho bất kỳ người phụ nữ nào trong phòng đứng dậy và rời khỏi trước. Hãy chắc là anh đứng dậy khi họ bắt đầu đứng lên, và ngồi xuống lại khi họ đã đi khuất. Nếu người đàn ông với cọng lông vũ còn ở trong phòng, anh phải chờ ông ta cho phép thì anh mới có thể rời khỏi.

12. Trong lúc rời khỏi, anh sẽ ra ngoài bằng cổng phía đông.

13. Không đề cập danh sách này với ai.

Chúng tôi rất phấn khởi để được gặp anh. Hãy gọi khi có bất kỳ câu hỏi hay cần giải thích rõ hơn.

The Magnum.

Tôi đọc danh sách quy tắc và lật qua những trang khác trong gói thư ấy. Có một bản đồ của bãi đậu xe và lầu một, thông tin liên lạc, yêu cầu trang phục, và một tờ rơi quảng cáo kiểu cũ liệt kê các quyền lợi, trách nhiệm, và mức lương trung bình của một nhân viên phục vụ khách sạn – quá tốt so với mức lương tối thiểu trong kinh nghiệm làm việc của tôi.

“Chắc tôi đang bị chơi khăm rồi,” tôi nói với Brian, để anh ấy đọc qua danh sách các quy tắc. Brian cười lớn và bảo tôi ném nó vào sọt rác hoặc có thể đóng khung nó lại.

Đó là rác rưởi, đúng thế, nhưng tôi biết người duy nhất có thể chăm chút thứ rác đến thế cho tôi. Tôi cảm thấy được tâng bốc, thành thật mà nói. Điều này khá phức tạp, và tôi sẽ thừa nhận rằng nó rất chi tiết, cho đến từng tầng của bản đồ. Tôi định nhắn tin cho Kat nhưng nhớ ra tôi vẫn chưa có số di động của cô ấy. Thay vào đó, tôi đã gọi điện thoại bàn để nói lời cảm ơn vì món quà chơi khăm.

“Tôi đã không gửi anh gì cả,” Kat nói, với giọng điệu thật sự ngạc nhiên.

“Tôi nghĩ rằng điều ấy hài hước, Kat à. Danh sách quy tắc thì hơi có phần kịch tính đấy, cô có nghĩ vậy không?”

“Quy tắc?” Kat nghe có vẻ bối rối ở đầu dây bên kia và rồi tôi cười. “Ồ, phải rồi! Tôi đã quên mất rằng họ kỳ lạ ra sao khi cô bắt đầu công việc này.”

“Sao? Tôi không gửi anh gì cả,” Kat nói tiếp. “Tất cả những gì tôi nói là nhắc đến anh với quản lý của tôi. Nói dối một tí rằng anh có kinh nghiệm gì đó trong khâu chăm sóc khách hàng – không giống như công việc này yêu cầu quá cao. Ông ta đã hỏi tôi tên anh và địa chỉ và tôi biết anh đang sống cùng bạn trai của Jill nên… dễ dàng mà. Tên anh là Jesse Faulks, đúng không?”

“Đúng rồi.”

“Ông ta đã gửi anh một bưu kiện đúng không? Nhiều quy tắc kỳ quái?”

“Nếu chỉ có anh và người phỏng vấn, anh sẽ giới thiệu bản thân mình với câu: ’Thật là một ngày tuyệt vời khi được ra ngoài nhiều hơn,’” tôi đọc với giọng điệu đầy kịch tính.

“Đúng,” Kat nói, cười một tí. “Anh nên làm theo chúng.”

“Thật à? Tôi sẽ không thể nhớ hết đống rác này,” tôi nói. “Nếu không có một danh sách đánh dấu hay gì đó.”

“Chờ đã.”

Kat đã cúp máy và cô ấy đã không gọi lại trong vài phút. Cho đến ngày hôm sau.

“Này, Jesse!” Kat nói. “Tôi đã hỏi vòng quanh và tôi đã đúng. Anh không cần phải lo, mọi thứ luôn là thế. Các quy tắc có phần quá phức tạp. Nếu anh muốn tôi có thể ôn lại với anh, nhưng, quan trọng hơn hết, anh chỉ cần làm theo những luật ở nhánh 2b.”

“Thế thôi á?”

“Đúng rồi.”

Khi đó, tôi cảm thấy sức nặng trên ngực mình đã được nhấc khỏi, khi nghĩ đến việc có lại thu nhập. Nếu những người này muốn tôi ca hát và nhảy vũ điệu gót giày, tôi sẽ chấp nhận học vũ đạo, tốt thôi. Vào cuối ngày thì, tôi lại có được một công việc và sẽ dễ dàng khi mướn một ai đó hơn so với khi sa thải họ. Nếu tất cả chỉ là một thử thách phức tạp, tốt thôi. Tôi đã hỏi Kat chính xác những lời thoại mà tôi phải nói cho vở kịch phỏng vấn của mình. Cô ấy bắt đầu liệt kê chúng ra một cách bình thản, nhưng sau đó ít dần.

“Nếu anh không nghĩ anh có thể nhớ hết trước thứ bảy,” Kat đề cập, một cách ngại ngùng, “tôi có thể đến để giúp anh ôn bài.”

Tôi nhăn mặt. Cô ấy đang tự mời cô ấy đến. Ngoại hình của Kat cũng có vẻ dễ thương và tôi chỉ muốn nghĩ rằng đó là một cử chỉ tốt bụng, nhưng điều này cảm giác sâu xa hơn nữa. Tôi giữ điện thoại lên ngực mình, hoảng loạn, tìm Brian để rít lên sự hồi hộp của tôi, nhưng anh ấy đã đi gym mất rồi. Gợi ý một nơi công cộng, tôi tự nói với chính mình.

“Ừm… hay là chúng ta nói về điều này ở nơi như, công viên chẵng hạn? Ngày mai? Khi nào cô tan ca?”

“Tôi tan ca lúc sáu giờ tối ngày mai.”

Trời giờ ấy tối mất rồi. “Có một quán cà phê nhỏ gần đấy. Chúng ta có thể gặp mặt.”

Cô ấy đã đồng ý và tôi đã cúp máy cảm thấy thật tốt về hành động chuyển địa điểm gặp mặt sang một nơi ít riêng tư hơn. Brian cười tôi khi tôi kể điều ấy, và tôi đã nhận ra tôi có lẽ đã biến nó trở thành như một buổi hẹn hò. Chết tiệt.

Buổi ôn bài không-phải-hẹn-hò về những quy tắc ấy thực ra cũng không hẵn quá tệ như tôi nghĩ. Kat có vẻ thật sự hào hứng bắt tay vào công việc ôn cho tôi những gì cần phải làm trong từng hoàn cảnh. Cô ấy đã giữ danh sách ấy trên tay và yêu cầu tôi phải đọc lại từng bước. Chúng tôi đã loại bỏ những lời cảnh báo và chỉ tuân theo những điều cần thiết nhất của trường hợp mà mà cô ấy và các nhân viên đã trải qua.

“Và sau khi để đồ của anh vào hộp-“

“-nhưng áo khoác tôi vẫn có thể giữ,” tôi tiếp lời.

“Khi bước vào phòng và ngồi lên ghế sau, anh sẽ nói…”

“Thật là một vinh hạnh khi được biết anh, tôi rất hào hứng cho cơ hội để trở thành một phần của đội lừng-lẫy-nhảm-nhí của Grand.”

Katherine cười tươi, quan sát tôi với đôi mắt nâu to. “Anh được nhận,” cô ấy đùa.

Tôi cảm thấy thật tốt ngày thứ bảy hôm ấy. Trang phục yêu cầu của tôi là một vấn nạn khác, nhưng không tệ như những điều kia. Quần đen, áo đen có cổ, giày đen, cà vạt đỏ. Tôi đã mặc quần mà tôi đã mặc trong ngày lễ tốt nghiệp và đã mượn chiếc áo sơ mi đen từ Brian. Jill và tôi tìm thấy một chiếc cà vạt với giá một đô tại một cửa hàng quần áo dạt.

Tôi đã đi tàu điện ngầm vào thành phố và đã đến được The Magnum lúc khoản 9:50. Như Kat đã hứa, lối vào phía đông đã đóng, đồng nghĩa với việc tôi phải đi vòng đến lối vào phía nam. Tòa nhà trông cũng như bất kỳ khách sạn mà tôi đã thấy qua trong thành phố, cao và được xây bằng gạch với những bức tượng và huy hiệu được chạm lộng làm gia tăng bầu không khí long trọng cho sự hiện hữu của cả kiến trúc. Thêm vào đó, nó ở ngay đối diện một khu công viên, nhưng chỉ cách Chipotle bốn dãy phố. Không có gì trong thành phố hơn được một khu dân cư có một tiệm thức ăn nhanh ngon cả.

Tuy nhiên trước khi tôi thậm chí bước vào trong, mọi thứ có vẻ như đã không theo dự kiến. Cửa vào phía đông đã bị đóng như theo dự kiến, nhưng cửa vào phía nam cũng tương tự. Bức chạm lộng của người phụ nữ đang nhìn trừng trừng về phía tôi, từ chối nhúc nhích. Đây là mặt phía nam của tòa nhà. Đây là cánh cửa mà đáng lí ra tôi đã có thể bước qua. Nhưng, khi kéo nắm cửa, tôi đã không thể mở nó ra. Tôi đã gõ cửa, và chờ. Không ai đến. Tôi chạy vội về cửa phía đông, vừa lo lắng rằng lần này nó sẽ mở ra. Nếu trường hợp ấy xảy ra, tôi tiêu mất. Tôi chỉ biết nhánh quy tắc cho trường hợp B. Nhưng, khi thử lại cánh cửa ấy, nó vẫn bị khoá như cánh cửa trước.

“Gì kì vậy…” Tôi đi vòng quanh dọc con đường để tìm, nhưng đã không thể tìm thấy lối vào khác. Bây giờ đã gần 10:05 và tôi bắt đầu tự hỏi bản thân liệu có gì đó đã sai. Thế nên, tôi đã làm điều duy nhất mà tôi có thể nghĩ đến và gọi cho Kat. Cô ấy bắt máy rất nhanh.

“Ý anh là sao, mấy cánh cửa ấy đóng?” Kat gắt gỏng.

“Hôm nay là thứ bảy, đúng không?”

“À, đúng rồi. Hôm nay là ngày anh đến, tôi đã thấy trên lịch của Robert. Ông ta… chờ đã, tôi xuống đây, hãy đến phía đông tòa nhà và bỏ qua cửa, rồi đi vào con hẻm nhỏ, có một lối vào cho nhân viên ở đó, tôi có thể giúp anh vào trong. Hãy chờ ở đấy!”

Cô ấy cúp máy và tôi đã chạy nhanh vòng quanh tòa nhà rộng ấy. Lối nhỏ mà cô ấy nói đến là một điểm thụt lùi kỳ lạ của một toà nhà sang trọng. Những bức tường phẳng lì, những thùng rác nửa hở đang được xếp đống chật kín hai bên, nồng nặc mùi hôi thối của rác rưởi. Ngay cả giữa buổi sáng, bầu trời gần như tối lại trong khoảng không gian nhỏ bé đó.

Cánh cửa mà Kat nhắc đến là một cánh cửa nhạt nhẽo, màu xám trông có vẻ thiệt hại nhưng vẫn còn khả dụng, hoàn toàn tách biệt khỏi vẻ ngoài lòe loẹt trang trí mặt trước. Tôi bước qua lại trên mặt nhựa đường sứt mẻ, tránh những mảnh vụn thủy tinh và những đống thùng ngổn ngang. Sau đó, cánh cửa xám mở ra và tôi đã chú ý.

Nhưng đó không phải là Kat.

“Cậu làm gì ở đây vậy, nhóc? Cậu bị lạc à?” Một người đàn ông hỏi. Anh đang mặc một bộ đồng phục đen và đỏ với một bảng tên nhỏ ghi Eddie.

Theo bản năng, tôi đã sẽ trả lời “không” và lảm nhảm về việc ở đây cho buổi phỏng vấn, nhưng tôi biết tôi không nên ở đây. Điều này không có trong kịch bản phỏng vấn và nếu đây là lối vào duy nhất còn lại của tôi, tôi không thể nào để bị đuổi khỏi từ nó.

“Tôi là người mới. J—Rob bảo tôi đi đến đây trong ngày hôm nay,” tôi nói, mạnh miệng nêu ra cái tên mà tôi đã nghe Kat nói. “Nhưng… tôi…tôi…” tôi đã ra cử chỉ lúng túng về hướng cánh cửa, cố gắng truyền đạt ý đang cố muốn vào trong và hy vọng sự cố mơ hồ có thể như là một rào cản đáng hiểu.

“À,” anh ta nói, như đang nghĩ tình trạng không rõ ràng của tôi đã được đảm bảo. Đôi môi mỏng của anh mím chặt vào nhau và anh ta đã nhìn tôi một cách kỳ quặc. Có thể anh ta đang muốn nói điều gì đó, nhưng thay vào đó, anh đã nhanh chóng quàng một túi rác lớn đã ở phía sau dưới chân và giữ cửa mở cho tôi. “Vậy thì vào đi. Hôm nay ông ấy có một cuộc phỏng vấn hay việc gì đó, cậu có thể chờ ông ấy ở phòng giải lao. 15E.”

Tôi đỡ cánh cửa và giữ nó để anh ta có thể bỏ rác. “Cám ơn anh.”

Eddie gật đầu. Túi rác của anh ta đang rỉ chất nhờn, trông không bao giờ là dễ nhìn, nhưng anh ta có vẻ như không ngại để nó treo lủng lẵng qua vai mình. Khi anh ta bước qua tôi, tôi đã không ngửi thấy mùi phảng phất đặc trưng của rác, nhưng thay vào đó là mùi hương của một thứ gì đó như sắt. Anh ta bước tiếp, và tôi đã đi vào trong khách sạn, cánh cửa đóng lại ở đằng sau tôi. Tôi nhìn xuống sàn nhà được lau chùi bóng loáng, và thấy dấu vết mà túi rác đã để lại. Nó có một màu đỏ nâu hồng hào, như màu mà bạn hay thấy trên một quầy hay một tấm thớt sau khi cắt một miếng bít tết.

Thịt quá hạn, tôi tự nghĩ. Tôi nhận ra Eddie sẽ không mất lâu để ném bao rác và tôi cần phải đi khuất tầm mắt trước khi anh ta quay lại để không bị phát hiện. Tôi đã chạy nhanh dọc hành lang, qua một vài cánh cửa đôi, hướng vào phía trong dưới sự ước lượng của mình, với hy vọng đến được sảnh chính hay thấy được số phòng để có thể tự định vị bản thân. Không lâu sau, sàn gạch bông chuyển thành thảm xanh, và mặt tiền được trang trí công phu đã trở lại khi tôi bước vào nơi có các phòng chính.

Tôi nhìn vào cửa đầu tiên bên cạnh mình. 025E. Nó không phải là nơi tôi cần đến, nhưng nó đã cho tôi thông tin cần thiết về hướng mà tôi cần đi. Kat đã chỉ cho tôi lộ trình trực tiếp trên bản đồ, nên tôi biết mình phải đến cánh bắc của tòa nhà trước, đồng nghĩ với việc đi dọc theo những số E cho đến khi nhỏ dần thành số 1 ở gần sảnh chính, và rồi có thể tiếp tục theo như lộ trình cũ qua cổng hướng nam. Tôi vẫn có áo khoác, và điện thoại, nhưng điều này không phải là không lo được. Tôi có thể giả mạo điều ấy.

Việc đầu tiên, tôi cần phải trút bỏ đồ dùng cá nhân của mình. Hành lang là một nơi được bày biện rất công phu, được trang trí bằng những chiếc bàn gỗ mỏng và ánh điện vàng tinh tế. Có những tác phẩm nghệ thuật bằng ngà voi, ngọc bích và đồng trông rất đắt tiền. Tôi nhanh chóng cởi bỏ áo khoác của mình và điện thoại của mình khi đến cửa 011E, gói cả hai lại và nhét nó vào một chiếc bình sứ to đẹp. Tôi sẽ không để mất một cuộc phỏng vấn ngu ngốc chỉ vì mắc phải lỗi kỹ thuật.

Tôi tiếp tục, nửa lo sợ rằng mình đã bị lạc cho đến khi tôi đụng phải bức tường đầu tiên với một bức tượng bán khỏa thân của một anh chàng nào đó thời những năm 1800. Kat đã đề cập đến nó trước đây. Tôi đang ở hành lang ngay đằng sau tiền sảnh và lúc này đang đứng ngay phía sau bàn tiếp tân. Tất cả những gì tôi cần phải làm từ đây là rẽ trái – hoặc tôi sẽ làm nếu tôi đến từ phía nam. Bây giờ, tôi chỉ cần tiếp tục bước đi và tôi sẽ đến nơi. Tôi phải bước tiếp, rẽ phải ở nhà vệ sinh nữ và sau đó, 002N sẽ ở bên phải.

Khi qua khỏi bức tượng bán khỏa thân kia, có hai nữ nhân viên đang trò chuyện, rẽ vào từ góc hành lang và phát hiện ra tôi. Khi điều ấy xảy ra, họ trở nên im lặng tuyệt đối. Họ đã không giảm tốc độ, nhưng họ đã nhìn chằm chằm, hàm hơi chùng xuống khi nhìn thấy tôi. Tôi cố gắng mỉm cười lại, nhưng họ đã lảng tránh và quay đầu đi rồi tiếp tục bước đi. Một trong hai cô đã đánh rơi thứ gì đó. Nó đủ nặng để họ có thể nghe thấy tiếng kịch đủ lớn, nhưng họ đã rẽ qua góc mặc kệ nó thay vì dừng lại.

Đó là một chìa khóa. Tôi đã nhặt nó lên và trông rõ ràng nó là một chìa khóa phòng kiểu cũ, không phải thẻ từ cho ổ khóa điện tử, mà là một chìa khóa đồng với một thẻ ghi 001. Tôi đã đi lùi lại một chút, cố tạo sự chú ý từ họ. Họ đã đi sát nhau hơn, khoác tay nhau, thì thầm và cười khúc khích với nhau. Một cô đã ngoảnh mặt lại liếc nhìn về phía lối hành lang trống trải và trông thực sự kinh ngạc khi thấy tôi. Tôi đã giơ chìa khóa lên, ra hiệu về thứ mà cô ta đã đánh rơi. Cô ta đã gật đầu và ngoắc đầu qua bên như thể đang cố nói, hãy tiếp tục đi.

“Nhưng—“

Cô ta đã giơ bàn tay lên môi rồi quay lưng lại, và quàng tay với bạn của cô ta để bước nhanh đi. Tôi đã giữ lại chìa khóa ấy trong tay mình. Đây là phần hành lang mà tôi sẽ đến được theo lộ trình. Hướng dẫn có ghi rằng tôi không được phép nói chuyện với các nhân viên. Có lẽ cô ta cũng biết điều ấy. Có lẽ cô ta là một trong những người bạn của Kat và đang cố giúp đỡ tôi. Tôi có nên để lại chìa khóa lên sàn? Hay đây là một phần của sự mơ hồ này? Tôi đang đắn đo giữa việc chỉ cần bỏ lại nó lên sàn, nhưng nó đã đang nằm gọn trong tay tôi rồi. Tôi có thể chỉ việc đưa nó cho người phỏng vấn của tôi và kể cho ông biết rằng chuyện gì đã xảy ra. Có lẽ đó chính là mấu chốt cho chuyện này.

Cuối cùng, tôi đã tìm ra phòng 002N tại nơi mà Kat nói, cửa kế cuối ở một hành lang cụt. Cửa cuối cùng. 001, đã được mở, he hé. Bên trong, đèn đã được tắt, tôi có thể nhìn thoáng thấy tấm thảm trên sàn. Tôi đã gõ cửa phòng 002N theo như kịch bản.

“Mời vào!” Tôi đã nghe tiếng gọi từ bên kia cửa.

Tôi vẫn ở ngoài, thư giản, biết rõ những gì Kat và tôi đã tập dợt.

“Này! Tôi bảo vào đi!” người bên kia cửa nói lớn tiếng hơn.

Tôi dịch chuyển một chút, do dự liệu tôi có nên gõ cửa lần nữa. Không. Hai cú gõ. Kat thậm chí đã nắm tay lại và gõ lên bàn khi chúng tôi luyện tập. Tôi cần phải chờ hai cú gõ lại.

Trong lúc chờ, tôi đã nghe một âm thanh ở đằng sau, từ 001. Âm thanh cót két của bản lề cửa phát ra nhè nhẹ. Khi tôi quay lại, nó đã được hé mở hơn, nhưng tôi vẫn không thể thấy nhiều từ góc nhìn của tôi. Nhưng tôi đã nghe thấy một thứ gì đó từ bên trong. Một ai đó đang di chuyển qua lại, cào lên bức tường đối diện tôi. Tôi đã nghe giọng rên rỉ yếu ớt của một ông lão.

“Cứu tôi,” ông ta nói với chất giọng rạn nứt và sầu thảm. “Ai đó làm ơn. Cứu tôi.”

Tôi không biết điều gì đã khiến tôi cảm thấy mệt mỏi. Có thể từ một điều gì đó trong giọng nói ấy, tuyệt vọng và sần sùi, đúng vậy, nhưng nó hơi quá rõ ràng, hầu như nó biết rằng tôi đã ở đó để nghe thấy nó. Một phần bản năng của tôi bảo tôi phải giữ yên vị trí. Sau đó, âm thanh rên rỉ dừng lại và tiếng thình thịch nặng nề bắt đầu, như một nắm đấm đang đập lên tường. Tôi lại nghe thấy tiếng người đàn ông bên trong rên rỉ và lê bước, chầm chậm đi dọc theo chiều dài của căn phòng, đền gần cửa hơn.

Tôi gõ cửa 002N lại. “Này! Này, có ai đó ở đây!” Tôi đã gọi lớn chỉ để nhận lại không lời phản hồi nào. Tiếng rên rỉ tiến gần hơn đến cửa.

“Cứu tôi! Je…Jesss…cứu!”

Tôi phóng đến cửa 001, cầm lấy nắm cửa và để đóng sầm nó lại. Tôi đã không nhìn vào trong phòng, nhưng tôi đã bắt được mùi hương phảng phất từ nó. Mùi hôi thối nồng nặc của cống thoát nước, giống như có thứ gì đó đã chết và thối rữa ở bên trong. Sau đó, một bàn tay đưa ra chộp lấy cổ tay tôi và kéo mạnh. Tôi bị kéo ngược trở lại phía đối diện của hành lang và thấy Kat, đang kéo cửa đóng lại. Phòng 001 rung chuyển khi thứ ở bên kia cánh cửa đang ném toàn bộ trọng lượng của nó vào cửa.

Kat quay lại nhìn tôi, giơ tay ra. “Chìa khóa!” cô ấy rít lên. “Chìa khóa đâu!”

Bàn tay tôi run rẩy khi tôi đưa nó vào trong túi để tìm cái chìa khóa đồng ấy. Tôi đã chưa thể lấy nó hoàn toàn ra khỏi túi trước khi Kat giật lấy nó và khóa cửa lại. Một tiếng đập mạnh khác khiến cô ấy mất thăng bằng lùi lại phía đối diện của hành lang.

Và sau đó là lúc tôi nghe thấy hai tiếng gõ bình thản trên cánh cửa ở phía sau tôi. Tôi gần như nhảy dựng lên về phía bên kia trước khi kịp nhớ ra đó là từ phòng 002N mà tôi đang chờ đợi. Tôi nhìn Kat, dừng lại, để chỉnh lại áo blouse của mình. Kat trấn an rồi chỉnh cà vạt cho tôi.

“Đừng lo về điều ấy,” Kat thì thầm nhanh chóng. “Nói họ biết anh đã khóa cửa lại mà không có sự giúp đỡ từ ai khác. Tôi không có ở đây. Vào đi.”

Tôi hầu như mở toang cửa và chạy vào.

Ba thành viên khác của nhân viên đang ngồi ở trong, tất cả đều rất điềm đạm, và rõ ràng đã có phần bối rối trước sự thở dốc cùng với biểu cảm vô giá của tôi.

“Có chuyện gì vậy, Cưng? Trông anh có vẻ sợ hãi!” Người phụ nữ ở sau bàn hỏi.

“Một—“ tôi nhanh chóng ngậm miệng lại, nhận ra chính xác ai đang ở đấy.

Trong phòng có ba người như Kat đã cảnh báo, nhưng họ đã không… trông họ dễ gây xao nhãng hơn tôi dự phòng. Kat bảo tôi sẵn sàng để gặp người đàn ông mặc bộ vest đỏ, và tôi đã gặp ông ta từ lúc tôi vấp phải ghế của ông. Điều tôi chưa sẵn sàng chính là đã thấy ông ta bị bỏng nặng đến nhường nào. Một vết sẹo hồng nhạt gớm ghiếc chạy dọc khắp cổ, kéo dài làm nhăn nheo cằm, tai và lỗ mũi ông ta. Một mắt đã bị nhắm vĩnh viễn và mắt còn lại bị lệch.

Còn người phụ nữ đang đứng trong góc. Bà ta đang đứng lấp ló trên chiếc ghế bên cạnh người đàn ông mặc đồ đỏ, đôi mắt trũng sâu dán chặt vào tôi. Không có từ nào khác ngoài mãnh liệt để có thể miêu tả bà. Tôi cảm thấy như mình như đang bị giám sát trong cách tôi di chuyển và sự ồn ào của tôi khi tôi bước qua bà ta. Bà ta rất cao, cao đến nỗi bà có dáng đứng khòm lưng do nhiều năm phải cúi cổ xuống để nhìn xuống mọi người. Bà ta đã không nói gì với tôi, nhưng đầu bà ta đã quay và dõi theo tôi khi tôi bước.

Người cuối cùng là một người phụ nữ mặc đồ xanh lá mà tôi không được nói chuyện. Cô ta ăn mặc rất chỉnh tề và trông thật đẹp, nhưng cũng chính là người đang ngồi sau bàn nơi mà tôi sắp sửa phỏng vấn. Tôi đáng lẽ ra không nên nói chuyện với cô ta, phải không nhỉ? Đó là toàn bộ mấu chốt vấn đề mà Kat đã cấy sâu vào trong đầu tôi. Người tôi có thể ít lo ngại nhất chính là người phụ nữ cao lờ mờ đã co giật cơ nhẹ khi tôi ngồi xuống ghế.

“Tôi có thể lấy cho anh một ly nước không?” Người phụ nữ áo xanh hỏi một cách ngọt ngào. “Anh là cuộc hẹn 10 giờ của chúng tôi đúng không nào? Jesse Faulks?”

Tôi không được phép trả lời cô ta, đúng không nhỉ? Điều ấy có bao gồm gật đầu không?

“Anh này ốm quá,” người phụ nữ cao nói, đôi mắt lồi của bà ta vẫn dán chặt lên tôi. Cái lưỡi nhợt nhạt của bà thò ra để liếm môi. “Như que tăm.”

“Ngoan nào, Lorie,” người đàn ông nói với người phụ nữ cao. “Jesse, đây là Lorie Bellaford, quản lý đáng kính của tiền sảnh,” ông ta nói, vừa gật đầu với người phụ nữ cao kia. Rồi ông ta ra hiệu về phía người phụ nữ mặc đồ xanh. “Frederika Sardie, tổng giám đốc khách sạn này, và tôi là Robert Strauss, trưởng ban tiếp tân kiêm quản lý tuyển dụng. Anh có thể kể cho chúng tôi một chút về anh.”

“Tôi… ừm… tôi… đây là một vinh hạnh khi được gặp mọi người, tôi rất hào hứng cho cơ hội để trở thành một phần của đội Grand…” tôi không thể nhớ phần còn lại của câu nói nói ngu ngốc ấy.

“đội lừng lẫy của Grand,” Frederika sửa lại. “Cũng tạm ổn, tôi phải nói.”

Ba người họ cười. Tôi nhìn Robert. “Tôi… có một thứ gì đó trong phòng một—“

Robert đưa bàn tay lên. “Chúng ta sẽ bàn việc đấy sau.”

“…vâng.”

“Anh có gặp rắc rối khi tìm cổng vào không?” Robert hỏi.

“Không.”

“Không?”

“Tôi ờ… một người nào đó đã bước ra khi tôi bước vào.”

“Ở cổng nào?”

“Cổng phía đông.”

“Thật kỳ lạ. Tôi đã chắc là cả hai cửa đều khoá,” Robert nói, nhìn chăm chú lên tôi. Ông ta nhướng một chân mày, chờ đợi câu trả lời của tôi. Khi tôi không thể đưa ra câu trả lời, ông ta nói tiếp. “Tại sao anh nói dối?”

“Tô… tôi đã không gặp rắc rối khi vào trong.”

“Anh có biết thứ gì ở trong túi không?” Lorie hỏi, giọng bà ta trở nên cao và hào hứng.

“Túi nào?” Robert hỏi, với vẻ mặt bối rối.

“Túi mà Eddie đã mang ra,” Lorie nói.

Tôi lắc đầu, quá kinh hãi bởi ánh mắt của bà ấy là câu trả lời của tôi.

Robert nhướng mày lên. “Anh đã gặp Eddie? Người lao công.”

“Không quá lâu,” tôi trả lời một cách ngập ngừng.

Robert và Frederika nhìn nhau, nhưng Frederika đã mỉm cười. “Đó là một lối vào ở phía đông.”

Robert hằng giọng và tiếp tục. “Vậy anh đã thấy hai cô gái làm rơi chìa khoá của phòng một. Tại sao anh giữ nó?”

“Tôi… tôi đã không định giữ nó. Tôi đã định trả lại nó cho mọi người khi tôi bước vào đây, nhưng rồi—“

“—phòng số 1,” người phụ nữ mặc đồ xanh thêm vào.

Tôi suýt trả lời thêm để xác nhận và rồi dừng lại. Cô ta cười tươi, cảm thấy giải trí khi bắt gặp tôi sắp sửa lên tiếng.

“Anh đã làm gì?” Robert hỏi.

“Tôi đã đóng cửa lại và khóa nó.”

“Chỉ thế thôi?”

“Vâng.”

“Tại sao anh không vào phòng để nhìn xem ai đang kêu gọi?” Ông ta hỏi.

“Tôi đã có linh cảm không tốt.”

“Và anh có cảm thấy bị cám dỗ để nhìn vào đó không? Bước vào, chỉ để nhìn?” Robert hỏi.

“Đó là một bài kiểm tra, đúng không?” Tôi hỏi. “Người ta có nên nhìn vào đó không?”

“Nếu họ không muốn làm việc ở đây,” Lorie nói, với nụ cười nhăn nheo, hào hứng quá mức của bà ta.

“Bà ấy có làm anh khó chịu không?” Frederika hỏi tôi đột ngột bằng một nụ cười xấu xa. Trong khi ấy, gương mặt đầy nếp nhăn của Lorie nhăn lại thành một cái cau mày và đôi mắt của bà ấy vẫn nhìn tôi đầy đe dọa. Tôi đã muốn phản đối, nhưng tôi không được phép nói chuyện với cô ấy. Tôi bắt đầu cân nhắc về sự quan tâm của tôi đối với các quy tắc được đặt ra một cách vặn vẹo như thế. “Bà ấy làm anh khó chịu, nhỉ?” Frederika khiêu khích. “Nghe chưa, Lorie? Anh ta nghĩ rằng bà gớm ghiếc đấy.”

Lorie đã đạp chân mạnh về phía trước rồi đột ngột lù lù tiến đến về hướng của tôi, và tôi đã không còn nơi nào khác ngoài sau ghế của tôi khi người phụ nữ với đôi mắt đáng sợ đang nhìn chằm chằm vào tôi càng sâu hơn. Sau đó Robert hắng giọng. “Thế là đủ rồi. Cảm ơn anh.”

Lorie và Frederika đứng lên và tôi cũng đứng dậy khi họ rời khỏi phòng. Tôi nhìn lại về phía Robert sau đấy. “Nơi này là sao?”

“Một nơi cần sự thận trọng, khả năng ghi nhớ và ứng biến tốt. Tôi nghĩ rằng anh sẽ rất phù hợp ở đây, “Robert nói, đứng lên và bước đến bàn làm việc. Ông mở ra một ngăn tủ rồi lấy ra một số giấy tờ. Sau đó, ông ta rút ra một khăn tay và đưa tay lên, kéo một mảnh da trên trán của mình lên. Tôi suýt bật dậy khỏi chỗ ngồi của mình khi ông ta đang bắt đầu lột mảnh da.

“Lạy hồn-“

Robert tiếp tục kéo cho đến khi nửa gương mặt của ông ta đã được gỡ bỏ, nhưng bên dưới nó không phải là những cơ thịt, chỉ là một phần bình thường của nửa gương mặt. Đó là một lớp cải trang. Vết sẹo bỏng cải trang. “Thứ lỗi cho tôi. Những thứ này làm tôi ngứa, nhưng tôi rất muốn đưa ra một lời mời để làm việc cho chúng tôi.”

“Mọi thứ đó chỉ là hóa trang thôi sao?” tôi gắt gỏng.

“Một phần của cuộc phỏng vấn. Túi mà Eddie mang theo tạo sự khả nghi và Joe thích dọa người mới ở phòng số một. Anh thấy đấy, như tôi đã nói, đây là một công việc khó lường trước, và chúng tôi cần một số người có tính cách nhất định. Chúng tôi cố tìm hiểu người ấy càng nhanh càng tốt.” Robert lau sạch phần còn lại của lớp hóa trang bằng chiếc khăn tay và lại trông như một người đàn ông độ tuổi  ngoài bốn mươi. “Hầu hết người khác bị sẽ sụp đổ bởi Lorie hay quên mất quy tắc với Freddie.”

Tôi ngớ người ra từ ngoài cửa. “Thế ư? Đó là buổi phỏng vấn?”

“Chính xác.”

“Anh không muốn hỏi tôi những câu hỏi khác?”

“Tôi đã biết được mọi thứ tôi cần biết về anh. Sự thật rằng anh có thể tìm thấy chúng tôi và rồi gửi một lá thư yêu cầu đến chúng tôi là một khởi đầu để tôi biết anh biết nơi này là một nơi ra sao rồi. Làm theo các quy tắc và sự phản ứng của anh đối với những điều ngạc nhiên dành cho anh đã cho chúng tôi biết mọi điều còn lại tôi cần biết.”

“Nơi làm việc này của ông ra sao mà ông cần tôi phải biết phản ứng với một túi rỉ máu và một gã rên rỉ từ một phòng khác?”

Robert ngồi thẳng và mỉm cười như thể đó là một câu hỏi mà câu trả lời rất dễ hiểu. “Chúng tôi là khách sạn quan trọng. Nửa phần công việc của chúng tôi là như thể nó là một nơi bình thường, nhưng không phải vậy. Có rất nhiều yêu cầu và giao thức phải tuân theo và nó yêu cầu anh phải biết cách xử lý trong nhiều tình huống. Anh có nhờ ai giúp đỡ với những quy tắc không?”

“Không có,” tôi nói như được diễn tập. “Tôi đã không nên cho bất kỳ ai xem ngay từ đầu. Và đây cũng là một phần cực đoan khác của bài kiểm tra?”

“Tốt,” Robert nói. “Nếu anh không thể nhớ được và làm theo những chỉ dẫn với thời lượng mà chúng tôi đặt ra cho anh, thì anh cũng đã không phù hợp với việc đảm nhiệm công việc này. Nhưng anh là một người có khả năng thiên bẩm, nhưng anh cần phải có đủ sự độc lập bản thân để anh không hoàn toàn thiếu hụt khả năng suy nghĩ sâu xa hơn. Anh sẽ làm rất tốt ở đây.”

“Nghe này, sau mọi thứ, tôi cũng không biết liệu tôi có muốn công việc này.”

Robert đã không nói gì, chỉ cho tôi xem mức lương khởi điểm. “Đây đúng là đi bộ qua lửa. Nhưng, tôi có thể cam đoan, nếu anh ký tên làm việc với chúng tôi, miễn sao anh làm theo những quy tắc, anh sẽ ổn.”

Lương bổng rất tốt. Cực tốt.

Bộ quy tắc đầu tiên cũng đã không quá tệ. Nếu đó là một ý tưởng kỳ quái để quảng bá sự thận trọng, thì tốt thôi. Joe và Eddie là hai người được sắp xếp sẵn. Tôi có thể giữ miệng mình im lặng. Nếu họ nhận tôi vào làm việc và những gì tôi cần làm là học thuộc một lịch trình, tốt thôi. Vậy nên, tôi đã nhận công việc. Mức lương tốt hơn những gì tôi nhận được từ việc làm ở một phòng thí nghiệm, và trong khoảnh khắc đó mọi thứ đã chuyển từ kinh hãi thành hoàn toàn thư giãn. Tôi đã ký hợp đồng ngay tại đấy và về nhà với một bộ quy tắc, một thời gian biểu và một khoản tiền thưởng nhận việc.

Tôi thích thú, vẫy tấm chi phiếu vào mặt Brian. Jill đến sau đó và tôi cũng đã hết lòng cảm ơn cô ấy. “Jill, tôi rất vui vì cô có những người bạn tốt,” tôi nói khi xé phong bì cho danh sách quy tắc mới.

“Ý anh là sao?”

“Katherine đấy.”

“Ai?”

“Katherine…” tôi vẫn không thể nhớ ra họ của cô ấy. “Bạn hội chị em nữ sinh của cô. Cô đang ngồi nói chuyện với cô ấy trong buổi tụ họp trước khi chúng tôi đến.”

“À,” Jill gật đầu.

Tôi quay lại với hợp đồng của mình và kéo ra danh sách các quy tắc mới kia, lật vào trang đầu tiên. “Ý anh là cô gái tóc vàng đó à?” Jill hỏi. “Tôi chỉ vừa mới gặp cô ta trong buổi tối hôm ấy thôi. Tôi đã nghĩ rằng cô ta là bạn của anh.”

Luật 1: Đừng bao giờ nói chuyện với Katherine. Đừng bao giờ cho cô ta biết tên của anh.

Đệt.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *