“Hãy cho tôi biết… anh đã bắt đầu hiểu ra chưa, ngài Bly?”
Tôi quay lại để đối mặt với bác sĩ Wasserman khi ông ta tiến vào trong phòng, rồi đóng cửa lại ở đằng sau ông. Ông ta đang kẹp một chồng những tập tài liệu manila dưới một bên cánh tay.
“Tôi chỉ hiểu rằng ông là một tên chó đẻ bệnh hoạn…” tôi gầm gừ, bước một bước về phía tên bác sĩ, sự giận dữ đang dâng trào trong tôi khi tôi nghĩ về những đứa trẻ bị biến dạng và mổ xẻ mà tôi đã trông thấy qua cửa sổ kính.
Bình thản, ông đã tra tay vào trong túi của bộ vest nhàu nhĩ của mình và lấy ra một khẩu súng lục nhỏ gọn, có giảm thanh. “Tôi đến đây để có một điều mà tôi hy vọng là một cuộc trò chuyện văn minh với anh, ngài Bly, nhưng tôi không có ý định cho phép anh tấn công tôi. Mời anh ngồi xuống?”
Tôi hít một hơi sâu. Tôi đã không mấy hứng thú về những gì tên điên khùng vặn vẹo này sẽ nói, nhưng nếu tôi cần phải sống sót đủ lâu để tìm ra đường thoát, tôi phải thật khéo léo. Nên, tôi đã thận trọng ngồi xuống, mắt không rời khỏi kẻ bắt giữ đầy giả dối của mình.
“Cảm ơn anh.” Tên bác sĩ ấy nói một cách lịch thiệp, rồi tiến đến bàn.
“Tôi có biết là anh đã thấy qua khoa sơ sinh của chúng tôi rồi nhỉ.” Ông ta nói, giọng điệu bình thản, khi đang bắt đầu đặt các tập tài liệu lên bàn. “Anh nghĩ sao?”
“Tôi nghĩ rằng ở địa ngục có một chỗ đặc biệt dành riêng cho những người làm hại trẻ em.” Tôi gầm gừ.
Wasserman thở dài, vừa tiếp tục đặt những tập tài liệu. Trông chúng có vẻ như là những tài liệu bệnh nhân, mỗi hồ sơ được đánh dấu với một tên. “Nếu nơi ấy có thật, tôi hy vọng là anh đúng.”
“Vậy tại sao ông lại làm những điều này?” Tôi giận dữ.
Wasserman kinh ngạc nhướng mày, và rồi chậm rãi gật đầu, như thể đã ngộ ra một điều gì mới mẻ. “À, đúng rồi… anh sẽ nghĩ đến điều ấy, khi nhìn thấy những gì anh đã thấy. Nhưng anh đã hiểu lầm, ngài Bly. Tôi không là người có trách nhiệm gây ra sự đau thương cho lũ trẻ trong khoa này.”
“Vậy à? Vậy thì là ai?” Tôi đáp lại, đầy vẻ hoài nghi.
“À,” ông ta bắt đầu, trong lúc đang ngồi xuống ghế đối diện tôi, vẫn giữ khẩu súng hướng về phía tôi. “Tất nhiên là cha mẹ của chúng. Cụ thể là mẹ của chúng.”
Tôi đã cau mày trong sự bối rối, trong khi Wasserman ra hiệu để nhìn về cửa sổ.
“Những đứa trẻ anh đang thấy là những đứa con của các bệnh nhân. Những người phụ nữ đã bị hạ gục bởi việc lạm dụng chất kích thích hoàn toàn đến nỗi họ không còn ý chí để giảm sự nghiện ngập của họ thậm chí vì lợi ích của những đứa con của họ.”
Ông ta bắt đầu kể ra những tai ương của bọn trẻ, đánh dấu chúng trên đầu ngón tay, từng ngón một. Giọng nói ông ta thờ ơ ngoài mặt, nhưng tôi có thể nhận thấy một nốt tức giận đang được kìm nén. “Dị tật bàn tay bẩm sinh, hở hàm ếch nghiêm trọng, khuyết tật tim cần phẫu thuật chỉnh sửa… tất cả điều là kết quả trực tiếp của những chất kích thích mà mẹ chúng đã lạm dụng trong khi đang mang thai.”
Tôi đã bắt đầu hiểu ra. “Đứa trẻ mà Monica đang bế trên tay chính là…?”
“Con trai của cô ấy.” Wasserman đã xác nhận. “Tanner là một trong những ca ngộ độc rượu thai nhi tồi tệ nhất mà các chuyên gia trẻ sơ sinh từng chứng kiến. Tất nhiên, những dấu hiệu bên ngoài, thể chất là khá rõ ràng, nhưng chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết được hoàn toàn mức độ suy giảm tinh thần và thể chất của bé. Nhưng Monica là một trường hợp đặc biệt.”
“Tại sao?” Tôi hỏi.
“Những người mẹ của những đứa trẻ khác là những người nghiện rượu hay chất kích thích. Monica, thực tế, đều không nghiện gì cả. Căn bệnh của cô ấy là một thứ gì đó hoàn toàn khác.” Wasserman giải thích. “Cụ thể, nó là căn bệnh của Cái Ác.”
“…ông không đang đùa chứ.” Tôi nhạt nhẽo đáp lại.
“Tôi nói thật đấy.” Wasserman quả quyết, không mất một nhịp nào. “Anh thấy đấy, ngài Bly, nhiều năm trước, khi tôi còn học trường y, tôi đã từng là một thành viên của một… tôi đoán anh có thể gọi nó là nhóm nghiên cứu nhỏ. Mối quan tâm đặc biệt của nhóm này là về triết lý y học, và chính tại đó, lần đầu tiên tôi được nghe một sinh viên đồng nghiệp giới thiệu chủ để lý thuyết mà ông ấy đã phát triển trong khi nghiên cứu dịch tễ học. Ông ấy tin rằng bản thân cái ác có thể được hiểu tốt nhất không phải dưới khái niệm triết học phù du, mà là một căn bệnh.”
“Tôi không chắc là tôi hiểu.” Tôi đã thừa nhận, trong sự thận trọng.
“Tà ác, theo lý thuyết của ông ấy, là một căn bệnh lây lan qua theo kiểu có thể dự đoán được,” bác sĩ giải thích. “Từ người này sang người khác, thông qua các hành vi xấu xa. Chắc hẳn anh đã từng nghe về nó, ví dụ về việc hầu hết những kẻ ngược đãi trẻ em đã bị ngược đãi khi họ còn nhỏ. Như thể họ đã bị lây nhiễm bởi chính cái ác đã làm họ trở thành nạn nhân, tà ác mưng mủ bên trong họ, và qua thời gian, làm cho họ truyền bệnh cho người khác. Đó chỉ là một ví dụ trong số nhiều ví dụ khác.”
“Thì… sao? Đó là cách điều trị của ông?” Tôi hỏi, chỉ vào người phụ nữ ở bên kia cửa sổ, vẫn nhìn đứa con dị tật của mình trong sự mãn nguyện trống rỗng. “Ông xáo trộn não của một người xấu để làm họ trở nên tốt?”
“Không,” bác sĩ lắc đầu đáp. “Quyền năng để làm con người trở nên tốt là một điều gì đó, tôi nghĩ, sẽ mãi ngoài tầm với của y dược và tâm lý học. Những gì tôi làm ở đây không phải là phương thuốc chữa trị – nó giống hơn khi so sánh với một hình thức cách ly. Tôi không thể chữa trị cho họ, nhưng tôi có thể lấy đi khả năng lây truyền bệnh của họ.”
“Cắt đi bàn tay của một kẻ ăn cắp vặt để hắn không thể ăn cắp nữa? Là thế sao?” Tôi hỏi thách đố.
“Tất nhiên là không!” Wasserman hồi đáp một cách ngạc nhiên mãnh liệt. “Làm cụt những kẻ trộm, thiến những tên hiếp dâm… những hành động dã man ấy là bằng chứng của sự lây lan căn bệnh, không phải cách ly. Nền tảng thẩm mỹ của giá trị cuộc sống con người trong xã hội là sự bất khả xâm phạm của cơ thể con người, bất chấp những mục đích xấu xa mà một cơ thể có thể đã phải chịu đựng. Việc đơn giản giết một ai đó ngay lập tức sẽ ít xấu xa hơn, khi anh thực sự xứng đáng với trừng phạt đồ tể đến thế. Thay thế cái chết bằng sự cắt xẻo thể xác là sự tàn ác đầy thù hận hoặc là sự hèn nhát về mặt đạo đức – cuối cùng thì cả hai đều dẫn đến cái ác.”
“Nhưng ông thì cắt đi tâm trí của con người?” Tôi nêu ra. “Ông đang cắt não người khác!”
“Không phải như vậy,” ông ta từ chối, một cách ôn hoà. “Cắt não qua hốc mắt – thủ thuật này được thực hiện với một đầu dò được mài sắc – là một công cụ mạnh bạo xét về tầm ảnh hưởng của nó. Bây giờ chúng ta biết nhiều hơn về hoạt động của bộ não so với những ngày mà thủ thuật ấy còn phổ biến. Kết quả vẫn tương tự, tôi bảo đảm với anh, nhưng phương pháp thực hiện đã trở nên tinh vi hơn rất nhiều.”
Ông ta mở ra một trong những tập hồ sơ trên bàn rồi trượt nó về phía tôi. Trong đó có hình ảnh của một thiết bị điện tử nhỏ với những sợi dây đồng mỏng dài nối ra. “Một vật cấy ghép, không khác những thiết bị cấy ghép não khác được sử dụng để kiểm soát co giật động kinh. Nhưng, thay cho những dòng điện làm ngừng những hoạt động bất thường của não khi lên cơn, thiết bị của chúng tôi sử dụng những luồng điện ấy để kiểm soát hoạt động của thùy não. Nó có thể dễ dàng được điều chỉnh chính xác dựa theo nhu cầu của từng bệnh nhân, và cường độ của dòng điện thì dao động dựa theo mức độ nghiêm trọng của… căn bệnh mà họ mắc phải.”
Ông ta cười nhợt nhạt, diễn tả với thái độ rùng rợn, mặc dù trên tay vẫn đang cầm khẩu súng. “Hóa ra phương pháp hiệu quả nhất để cấy các đầu đò của thiết bị là chèn chúng vào qua hốc mắt – và thật không may khi chúng đã tạo ra vết bầm tím đặc trưng.”
Tôi nhìn chăm chú bảng vẽ trong sự kinh ngạc đang nằm trên bàn. Nghe có vẻ như khoa học viễn tưởng… nhưng, tôi đã nghe qua về những cấy ghép kiểm soát co giật mà tên bác sĩ đã nhắc đến, điều ấy là đúng. Và bằng cách nào đó, điều ấy trở nên dễ tin tưởng hơn so với việc một bác sĩ bé nhỏ có vẻ tận tâm và có lý trí đang ngồi đối diện tôi thường xuyên khuấy não bệnh nhân của hắn bằng một dụng cụ đục đá.
Điều khôn khéo nhất là phải thuận theo hắn, giả dạng đồng cảm với hắn… nhưng bằng cách nào đó tôi đã không nghĩ rằng mình có thể đánh lừa Wasserman như thế. Hắn có thể điên, nhưng hắn không ngu ngốc, và tôi đã có ấn tượng rằng nghề nghiệp của hắn đã cho hắn khả năng phát hiện ra một kẻ đang nói dối.
Tôi lắc đầu. “Bác sĩ… tôi có thể chấp nhận rằng có thể ông có ý định tốt. Có lẽ điều này thật sự là phương pháp cắt não tử tế hơn, dịu dàng hơn. Nhưng điều ấy không cho phép ông làm điều này lên người khác. Ông có quyền để phán xét ai là người xấu, ai là người tốt?
Ông ta lắc đầu. “Có một song quan luận giả tạo ở đây, ngày Bly. Một người không cần phải hiểu được cái tốt để nhận ra căn bệnh của điều ác – ít ra là trong những dạng cấp tính của nó.”
Ông ta mở một hồ sơ khác, đó là của Monica.
“Như tôi đã nói ban nãy, Monica không phải là một con nghiện rượu. Thực chất, cô ấy đã rất thông minh và khéo léo, điều ấy đã giúp cô ấy điều khiển được sự lạm dụng nhiều chất kích thích giải trí. Cô ấy chưa hề sử dụng quá liều lượng, và đã luân chuyển giữa nhiều loại chất gây nghiện khác nhau để tránh làm tăng sự dung nạp. Điều ấy không đồng nghĩa nó không phải là hành vi tự hủy hoại bản thân về lâu dài, và cũng không đồng nghĩa nó sẽ không khiến cha mẹ giàu có của cô ấy xấu hổ. Họ đã đe doạ sẽ cắt cổ cô ấy nếu không tìm cách điều trị, nhiều lần. Họ cũng đã từ chối sử dụng ảnh hưởng của mình để tha bổng cho cô ấy khỏi trại cai nghiện theo lệnh của toà án khi cô ấy bị bắt vì DUI trong khi mang theo một lượng lớn chất ma túy bất hợp pháp, tất nhiên đó là cách cô ấy đã đến được với sự chăm sóc của chúng tôi.” Wasserman nói, trong lúc đọc lướt qua hồ sơ.
“Tôi không thấy điều ấy-“
“Cô ấy dần biết rằng cha mẹ cô ấy sẽ thật sự thực hiện những lời đe dọa tách cô ấy ra khỏi tài sản của gia đình và, sau đó ra khỏi lối sống mà cô đã quen.” Wasserman tiếp tục, cắt lời tôi.
“Khi chúng tôi đã biết được từ các cuộc đối đáp độc lập, cũng như những cuộc thảo luận với bệnh nhân rằng – điều mà Monica, một cách tự nhiên, hiểu rằng mình được bảo vệ bởi sự bảo mật của Bác Sĩ và Bệnh Nhân – cô ấy đã có giải pháp mà cô cho là hoàn hảo cho vấn đề của mình. Bên cạnh những loại thuốc giải trí khác, Monica còn có một toa thuốc tránh thai, loại thuốc mà cô sử dụng một cách tỉ mỉ. Đó là, cho đến khi cô nhận ra: để đảm bảo tiếp tục hỗ trợ tài chính từ cha mẹ mình là ngừng sử dụng chúng. Họ chấp nhận cắt nguồn trợ cấp của cô ấy – suy cho cùng thì, cô ấy cũng là một người trưởng thành – nhưng họ đã không muốn bỏ rơi cháu của họ. Cô ấy cũng đã nhận thức được hậu quả của việc uống rượu thường xuyên trong thời kỳ mang thai… và quyết định rằng có một đứa con có nhu cầu đặc biệt sẽ càng đảm bảo được thêm sự hỗ trợ tại chính từ cha mẹ. Điều đó sẽ không ảnh hưởng đến cô ấy theo cách nào đó, vì với số tiền của cha mẹ, cô ấy có thể thuê y tá, và những người giúp việc gia đình để thực hiện hầu hết công việc chăm sóc đứa trẻ.”
“Điều ấy không có lý…” tôi đã phản đối, trong kinh hoàng. “Cô ấy… cô ấy đáng lẽ phải biết rằng họ có thể đưa việc này ra tòa và giành quyền nuôi đứa trẻ – tôi đã được thuê bởi ông bà của nhiều đứa bé khác với cha mẹ nghiện ngập để giúp làm việc ấy.”
Wasserman đã lắc đầu. “Tuy chúng ta đã qua thời kỳ mà khi một đứa bé chào đời ngoài giá thú sẽ khuấy động nên một vụ bê bối xã hội đối với một gia đình giàu có như Monica, nhưng cô ấy cảm thấy chắc chắn rằng vụ bê bối từ việc lôi cô ấy ra tòa để giành quyền nuôi cháu sẽ là điều mà họ muốn tránh. Tôi hoàn toàn không chắc rằng cô ấy đã sai trong giả định ấy, thành thật mà nói.”
Ông ta đã gõ lên tập hồ sơ, quả quyết. “Vấn đề là đây không phải là bệnh tâm thần, ngài Bly – không phải là một căn bệnh được đã được mã hóa trong hệ thống DSM, dưới bất kì mức độ nào. Thật vậy, anh đã tận mắt chứng kiến cách chúng tôi điều trị bệnh tâm thần thật sự tại các khu kém an ninh hơn rồi. Những bệnh nhân đó được đối xử tôn trọng quyền tự chủ của họ và lòng trắc ẩn đối với những tổn thương của họ, chỉ sử dụng các phương thức đã được khoa học chứng mình đầy đủ về mặt đạo đức.” Wasserman tuyên bố, vững vàng. “Nhưng những người trong các tập hồ sơ này, những người mà anh đã thấy trong khu vực hạn chế? Họ không đơn giản bị bệnh. Họ ác độc.”
Ông ta mở ra tập hồ sơ thứ ba đang nằm trên bàn. Trong đó có một bức ảnh của một trong những bệnh nhân mà tôi đã trông thấy trên sân cỏ, cũng với bệnh án. “Wilson Hayes. Ông ta đã sàm sỡ năm đứa trẻ trong quãng thời gian mười lăm năm làm việc với tư cách là người dọn dẹp cho một nhà trẻ tư thục, nhưng đã được tha bổng cho tội ác của ông ta do hành vi sai trái của cảnh sát và nạn nhân không muốn làm chứng.”
Ông ta lại mở một tập hồ sơ khác. “Roberta Calson. Cô ta tin rằng chồng mình đang ngoại tình – vì vậy cô đã cầm một cây dao và thiến ông ta trong lúc ngủ. Một chẩn đoán thiếu chính xác do bị bệnh tâm thần bởi một người bất tài hay một chuyên gia tâm lý được chỉ định bởi tòa án đã tỏ lòng cảm thông một cách thoái quá, đã giúp cô ta không bị giam giữ.”
Ông ta dập mở một hồ sơ khác. “David Gallo, sát hại một gia đình bốn người khi đang lái cẩu thả chiếc xe SUV sang trọng của mình – tất cả đều mất mạng ngoại trừ người mẹ, rằng, sẽ sống quãng đời còn lại của mình thương xót cho chồng và con của cô, cũng như bị dính chặt lên ghế xe lăn. Thế nhưng, gia đình có những mối quan hệ của anh ta đã cho phép hắn tránh sự trừng phạt.”
Ông ta tiếp tục một hồ sơ khác, rồi một hồ sơ khác, sự phẫn nộ càng dâng lên trong giọng nói của ông. “Sát nhân. Hãm hiếp. Phá hoại. Muôn màu độc ác và hủy diệt. Và tất cả bọn chúng, tất cả những ‘bệnh nhân’ mà anh nhìn thấy trên sân đều thoát khỏi sự nắm bắt của hệ thống pháp luật. Tất cả bọn chúng – tự do tiếp tục lây lan dịch bệnh!”
Tôi ngồi im lặng trong sự choáng váng, khi người bác sĩ hít một hơi thật sâu và lấy lại phong thái.
“Nếu Chúa là có thật, ngài Bly, tôi chắc chắn không phải là Ông Ta. Tôi biết điều ấy. Có lẽ tôi không có quyền làm những gì mình làm, có lẽ tôi không thể làm người xấu trở nên tốt. Nhưng tôi cũng biết rằng tôi có thể ngăn cản họ khỏi việc tiếp tục lây lan căn bệnh ác độc cho người khác.” Ông ta nói, đôi chân mày cau lai trong đau đớn. “Và nếu tôi có thể, tôi phải làm thế. Như những vị bác sĩ đã bắt được Mary Thương Hàn khét tiếng – một vật chủ miễn nhiễm đã mang bệnh dịch cùng tên của cô ấy – và đã vĩnh viễn đưa cô ấy đến đảo cách ly, tôi có thể giúp giảm thiểu bệnh dịch, đơn giản bằng cách loại bỏ những trường hợp tệ nhất ra khỏi phương trình.”
Quay mặt ra cửa sổ, nơi một nữ y tá tâm lý đang mỉm cười dỗ dành Monica đưa trả đứa bé về nôi của nó. Vẻ mặt không cảm xúc của cô ấy trở nên khá khó chịu trong khi e dè trao con của mình cho nữ y tá. Rồi cô ấy nghiêng mình xuống, và đặt một nụ hôn trìu mến lên cái trán méo mó của nó. Ông bác sĩ cười, đượm buồn.
“Tôi không thể biến người xấu thành tốt, ngày Bly. Nhưng, khi tôi lấy đi phần lớn khả năng ý trí và lý trí của họ, và tước họ khỏi sự tự chủ độc lập, họ nhận lại được một điều. Phần lớn các trường hợp, điều ấy đơn giản là sự thanh thản, họ không còn nghe thấy sự thúc giục không ngừng nghỉ của ác quỷ để lan toả điều ác lên những nạn nhân mới. Trong trường hợp của Monica, tuy nhiên, tôi nghĩ rằng cô ấy còn có thêm một điều khác nữa: khả năng yêu thương đứa con của cô ấy.”
Tôi đứng cạnh bác sĩ trong im lặng một lúc lâu, theo dõi nữ y tá dìu cô ấy ra khỏi phòng sơ sinh, trước khi tôi lại lên tiếng.
“Tại sao ông kể những thứ này cho tôi biết, Bác Sĩ Wasserman?” Cuối cùng, tôi hỏi.
“Vì,” ông ta thở dài. “Anh, ngài Bly… anh không như những người trong những hồ sơ ấy. Anh không bị lây nhiễm. Có nghĩa là, tuy thuận tiện đối với tôi, tôi vẫn không thể làm những điều mà tôi làm với họ lên anh. Hay, thực sự, không thể giết anh, vì với cùng lý do. Tôi sẽ không trở thành một hướng chỉ thị khác cho căn bệnh mà tôi đã mất nhiều thời gian để chiến đấu.”
Miệng tôi không thể đóng lại, khi đang cố xử lý những gì người bác sĩ đã nói.
“Đúng – anh được tự do để rời khỏi. Nhưng e rằng tôi phải giữ lại thẻ nhớ trong máy ảnh của anh.” Ông ta nói, với một nụ cười nhợt nhạt. Rồi sắc mặt ông ta lại trở nên nghiêm túc. “Mặc cho điều ấy, tôi không nghi ngờ rằng, khi biết những điều anh biết, với kỹ năng và tài nguyên mà anh có thể tận dụng, anh vẫn có thể gây rắc rối nghiêm trọng cho trung tâm này.”
“Đúng…” tôi thừa nhận. “Đó là nguyên nhân vì sao tôi ngạc nhiên rằng ông có thể đơn giản để tôi đi, thật tình mà nói.”
“Như đã nói, tôi không có quyền để làm điều gì khác.” Wasserman nói. Và rồi, ông ta đưa tay ra để gõ khẳng định lên bàn. “Nhưng khi anh rời khỏi cơ sở này, ngài Bly, tôi thành khẩn yêu cầu anh cân nhắc một điều. Thủ thuật đã được thực hiện lên những người trong những hồ sơ này không nhất thiết là không thể đảo ngược – và trong mọi trường hợp, bộ phận cấy ghép trong họ cần phải được sạc lại thường xuyên thông qua cảm ứng, để có thể tiếp tục hoạt động. Nếu cơ sở này bị dừng hoạt động, nếu những người được giữ ở đây được ‘giải cứu’ bởi chính quyền… thì, theo thời gian, họ sẽ dần có lại được khả năng tâm lý của họ, và trở lại là họ của lúc trước. Hệ thống luật pháp đã thất bại để kết tội những người này, và trong khi chúng ta có tự tin trước những cuộc điều tra của mình, điều gì sẽ được chấp nhận trước tòa án lại là một vấn đề khác.”
Tôi nhìn qua những hồ sơ đang trải khắp mặt bàn, suy ngẫm về những tội ác được liệt kê trong chúng, những tệ nạn gây ra bởi từng bệnh nhân bị hủy hoại não bằng điện tử… và một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi tôi tưởng tượng lúc họ được trả tự do.
“Câu hỏi anh nên đặt ra,” người lớn tuổi nói tiếp một cách ảm đạm, “là không đơn giản chỉ liệu anh có nên phá hủy những gì tôi đã gầy dựng nên ở đây. Anh phải tự hỏi bản thân liệu anh có sẵn lòng mở rộng cánh cửa địa ngục ra khi anh làm điều ấy.”
Rồi, không bàn thêm điều gì, bác sĩ Wasserman thu lại các bộ hồ sơ, và nói lời từ biệt. Hai người kỷ luật viên nặng tay đã lặng lẽ hộ tống tôi về lại khu trại kém an ninh hơn, và từ nơi đó, tôi đã được cho xuất viện không lâu sau.
Và đó là câu chuyện khi tôi đã thâm nhập vào trung tâm Wasserman, và đã tìm ra bí mật đằng sau sự mất tích của Monica. Bác sĩ Wasserman đã không cho tôi cơ hội để tìm hiểu thêm về điều ấy, nhưng nó đã không quá khó để suy luận ra quá trình xuất viện của cô ấy được dàn dựng sắp xếp ra sao. Họ đơn giản yêu cầu Monica đích thân gọi điện cho gia đình, sau khi hướng dẫn cô ấy những gì cần nói. Rồi, rất có thể họ đã nhờ một nhân viên có ngoại hình và vóc dáng tương tự thuê taxi để đưa cô ấy vào trong tâm thành phố bằng thẻ tín dụng của Monica, nơi cô ấy biến mất trong đám đông trước khi quay trở lại trung tâm. Ông tài xế lái xe đã nhìn thấy qua hàng ngàn người – ngay cả khi ông ta được cho xem một bức ảnh của Monica thật, rất ít khả năng ông ta sẽ nhận ra sự khác biệt khi được chất vấn về điều ấy sau đó.
Thế đấy. Như tôi đã nói ban đầu, tôi kể câu chuyện này bởi vì tôi cần phải nói cho một ai đó biết. Tên của họ đã được thay đổi để bảo vệ danh tính cho người vô tội, lẫn những ai mà tôi không thể đưa ra sự phán xét.
Mặc cho những lời đồn giả cho điều ngược lại, trung tâm Wasserman vẫn chính xác như những gì nó có vẻ ngoài: một cơ sở hoàn toàn tốt và hiệu quả dành riêng cho việc điều trị bệnh tâm thần, và vượt xa đường cong biểu đồ về sự chăm sóc từ bi và sự tôn trọng quyền bệnh nhân. Mặc dù luôn không khuyến khích khi theo dấu một manh mối dẫn đến ngõ cụt, nhưng thực tế là dù cô ấy có ở đâu, thì nguyên nhân cho sự biến mất của Monica không phải là từ trung tâm ấy.