Tôi Là Một Người Thám Hiểm Thành Thị Và Tôi Sẽ Không Bao Giờ Quên Những Gì Tôi Đã Tìm Thấy Trong Một Nhà Máy Bị Bỏ Hoang

nhà máy bỏ hoang

Tên tôi là Wyatt, bây giờ tôi 21 tuổi, nhưng câu chuyện này đã xảy ra vào mùa đông trước, khi tôi còn 20. Tôi là một người thám hiểm đô thị và là một thợ chụp ảnh thiên nhiên. Đó là những chi tiết về tôi mà tôi có thể chia sẽ vì tôi không muốn bất kì ai tìm ra được tôi nếu họ biết được những gì tôi đã thấy. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ quên những gì tôi đã thấy, nhưng tôi không thể mạo hiểm kể cho bất kì người quen nào của tôi. Tôi hiện không ở trong tình trạng nguy hiểm, nhưng có rất nhiều thứ không biết trước được.

Đầu tháng mười hai năm trước, tôi đang trong quá trình tìm kiếm trên Instagram và đã thấy một số hình ảnh của một nhà máy bị bỏ hoang ở Đức. Đây là một nơi hoàn hảo, một nơi cũ đang bị mục nát dần, nhưng vẫn còn giữ được kiến trúc và hình dáng ban đầu như thể vẫn còn đang hoạt động. Một số những bức ảnh ấy làm tôi cảm thấy choáng ngợp, quang cảnh núi non qua khung cửa sổ cũ nát, những thứ tương tự như thế. Tôi đã chụp lại ảnh màn hình và tìm kiếm đảo ngược một trong những bức ảnh từ Instagram ấy và đã tìm ra được một địa điểm ở Đức. Nơi tôi tìm kiếm không có tên của nhà máy ấy, nhưng tôi đã đọc được thị trấn nhà máy đang ở là Wetschen. Tôi đã tra Google Earth và nhận ra đó là một vùng núi phía Bắc nước Đức. Khi tôi lướt qua những hình ảnh trên Google, một bài báo đã làm tôi dừng lại. Nó tuyên bố rằng nhà máy này sẽ bị san bằng vào tháng tư năm sau, có nghĩa là nó sẽ biến mất trong vài tháng.

Lúc đấy, tôi cảm thấy bốc đồng và phấn khích nên đã không nghĩ ngợi nhiều, tôi đã google những chuyến bay đến Berlin. Nhìn lại, tôi ước rằng điện thoại của tôi lúc đó đã hết pin, hay bất kì điều gì có thể ngăn tôi khỏi việc nhìn vào những chuyến bay. Tôi sẽ làm mọi thứ để quay trở lại và buộc bản thân mình tắt thẻ trình duyệt ấy đi. Tuy nhiên, tôi đã tìm ra được một chuyến bay xuất phát từ phi trường của tôi thứ tư tuần sau. Giá chỉ $600, khi tôi chuẩn bị mua vé máy bay thì tôi chợt nhớ đến người bạn Bryce (không phải tên thật của anh ta) cũng đang tìm một nơi để đi cho dịp nghỉ đông. Tôi đã gọi cậu ấy và bảo rằng tôi đã tìm được vé đến Berlin chỉ với giá $600. Tôi đã mong cậu ấy có thể can ngăn tôi, nhưng ngược lại, cậu ấy rất hào hứng về ý tưởng ấy. Buổi chiều hôm ấy chúng tôi đã mua vé rồi bàn tính cho kế hoạch khởi hành cho thứ tư tuần sau. Adrian (cũng không phải tên thật) cũng cùng đi với chúng tôi nhưng anh ấy sẽ tách nhóm sớm ngày thứ bảy để đến thăm gia đình ở Ba Lan. Tôi và Bryce đã dự tính đến Wetschen hôm ngày chủ nhật và dành vài giờ để tham quan.

Thứ tư đến, tôi đã chuẩn bị xong hết đồ đạc của mình, lens máy ảnh, thẻ nhớ, mặt nạ phòng độc, đèn pin, quần áo và gặp Bryce và Adrian. Chúng tôi đã bắt một chuyến Uber đến sân bay rồi nhanh chóng lên máy bay. Nói thật, tôi không nhớ nhiều về chi tiết của chuyến bay, tôi nghĩ rằng tôi đã dành phần lớn thời gian để ngủ, nhưng cuối cùng, tôi đã đến được Berlin. Vài ngày tiếp theo đó chỉ là một kỳ nghỉ bình thường, không có gì khác ngoài ngắm cảnh và làm những thứ khách tham quan hay làm. Ngày thứ bảy, chúng tôi chào tạm biệt Adrian khi anh ấy khởi hành đến Ba Lan. Đêm ấy tôi đã chắc chắn kiểm tra mọi thứ để chuẩn bị cho sáng hôm sau. Chúng tôi có một chuyến đi dài hai tiếng bằng xe hơi từ Berlin đến Wetschen, tôi đã mong rằng chúng tôi có thể có mặt ở đó khoảng hai hai giờ trưa và khám phá cho đến khoảng tám giờ tối. Nghĩ lại trong đầu, tôi có thể nhớ từng chi tiết nhỏ của ngày hôm ấy, tôi nhớ tiếng báo thức, cảm giác hào hứng sau khi thức dậy ngày hôm ấy, cảm giác nhìn thấy mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn cạnh giường tôi. Chúng tôi thức dậy rồi dùng bữa sáng trong sảnh của khách sạn trước khi đến nơi mướn xe. Chúng tôi đã chọn một chiết Chevy màu xanh dương trong bãi và người quản lý đã đưa tôi chìa khoá. Tôi dành vài giờ tiếp theo để lái xe qua những ngọn đồi trập trùng xanh tươi của nước Đức cho đến khi chúng tôi đến nơi.

Tôi không còn cảm giác khác ngoài hào hứng khi chúng tôi cuối cùng cũng đến được thị trấn. Tôi nhớ chỉ lái xe vòng quanh một tí cho đến khi chúng tôi tìm thấy nơi ấy, rõ như ban ngày, nhà máy bị bỏ hoang ấy. Nhà máy đó ở bên dưới một ngọn đồi cao, ở giữa một cánh đồng xanh tươi. Có những ngọn núi ở xa phía đông đối diện với nhà máy. Tôi bắt đầu tìm kiếm trên google map một nơi tốt để đậu xe mà chúng tôi có thể đi bộ đến đó. Có một bãi đậu xe lớn bên cạnh một khu nhà kho tự quản chỉ cách một phần tư dặm từ nhà máy. Tôi đã tấp vào một trong những ô quy định và nhìn xung quanh. “Chắc được rồi,” tôi gọi Bryce khi chúng tôi ra khỏi xe. Tôi xách theo túi máy ảnh, đèn pin, và mặt nạ phòng độc ở ghế sau rồi đeo lên. Cho bạn nào không biết, nhiều toà nhà cũ được xây dựng với những nguyên liệu độc hại như asbestos, nên điều ấy an toàn hơn khi không cố mạo hiểm và đeo một mặt nạ phòng độc. Chúng tôi bắt đầu bước xuống con đường nhựa cũ nứt nẻ với hoa và cỏ đã mọc xuyên qua những vết nứt ấy. Con đường ấy dẫn thẳng đến nhà máy. Nơi mà tôi nhớ, cuối cùng cũng có tầm nhìn tốt.

Nhà máy ấy màu nâu và rỉ sét, nhưng vẫn đẹp và lộng lẫy. Cây cỏ mọc trong nó như thể nó đã bị chiếm lại bởi thiên nhiên sau khi loài người đã rời bỏ nó. Sau một hồi đi bộ vòng quanh, chúng tôi đã đến được một lớp rào dây bị khoá, nhưng không có kẽm gai ở trên, nên tôi đã cân nhắc leo rào qua, nhưng thay vào đó, tôi đã quyết định tìm cách dễ hơn. Sau khi đi quanh hàng rào một lúc, tôi thấy một phần hàng rào đã bị cắt khỏi khung sắt bởi người khác. Chúng tôi đẩy rào ra đủ rộng và chui vào trong. Bây giờ chúng tôi chỉ cần tiến vào trong nhà máy. Điều ấy đã rõ với tôi rằng cửa chính không phải là một lựa chọn, có thể nó có cảm biến chuyển động. Tôi nhìn xung quanh cho đến khi tìm thấy nó, một cửa sổ bị vỡ. Chỉ cách đất khoảng mười feet thôi nên tôi đã nhờ Bryce giúp tôi lên. Cậu ta nâng tôi lên rồi tôi đã bám lấy ngưỡng cửa sổ. Tôi kéo mình lên và bò qua khung, đẩy những mảnh kính vỡ trong quá trình. Tôi đã kéo Bryce lên qua cửa sổ và chúng tôi đã cùng nhảy xuống đất bên trong nhà máy. Bây giờ khi tôi nói nơi này rất rộng, ý tôi là thênh thang, như một căn phòng đơn lớn nhất từ trước đến giờ tôi từng được thấy. Nơi này có nhiều tầng và những hành lang hẹp và những cầu nối, nơi này là một mỏ vàng. Ngay lập tức tôi lấy máy ảnh của mình ra và gắn len 16-35 của mình và đèn flash tốt nhất của tôi, và tôi cũng có chuẩn bị một thẻ sd mới hoàn toàn để phòng hờ.

Chúng tôi đã đi vòng quanh lầu trên một lúc, đa phần chỉ nhìn lên trần nhà. Tôi đã chụp được một bức của tất cả các hành lang catwalk và cầu nối, dẫn lên một lỗ hổng trên trần nhà để ánh mặt trời chiếu rọi xuyên qua. Chúng tôi bước lên trên một dãy thang để lên tầng hai. Lầu này có rất nhiều máy phát điện và tua-bin mở khắp nơi, được phủ bởi một lớp bụi dày và gạch vụn. Tôi chụp một vài ảnh ở lầu này nhưng chúng tôi đã nhanh chóng tiến lên tầng kế tiếp. Giống tương tự như lầu trước nhưng vẫn đẹp. Tôi bước ra rìa của tầng này rồi nhìn qua phần ban công nhỏ chúng tôi đang đứng. Ngay lập tức tôi cảm thấy chóng mặt khi nhìn thẳng xuống phía dưới đất. Tôi đã quen với điều này, nhưng chỉ không ngờ được chúng tôi đã ở quá cao đến cỡ nào. Chúng tôi đã leo lên tầng tiếp theo khi Bryce gọi tôi đến ngắm những ngọn núi qua khung cửa sổ. Đó là góc chụp từ Instagram mà tôi muốn. Tôi đã điều chỉnh thông số và chụp được bức ảnh. Tôi kiểm tra lại để chắc rằng nó ổn vì đó cơ bản là lí do của tôi khi đến đây.

Mặc dù tôi đang kể mọi thứ rất nhanh cho bạn biết, chúng tôi đã dành nhiều giờ lang thang trong nơi này và nhìn vào mọi chi tiết. Cuối cùng, chúng tôi đã đến được một nơi trông giống như một phòng điều khiển. Hẵn phải có đến hàng trăm nút và công tắc, tất cả đều được dán nhãn tiếng Đức mà tôi không thể đọc được, hay có vẻ như chỉ là những con số ngẫu nhiên. Qua lớp bụi dày cho thấy những thứ này đã lâu chưa được sử dụng qua, có thể hàng thập kỷ rồi. Dù nói thế, tôi biết tôi không nên làm điều này, nhưng tôi đã lấy một chìa khoá bạc từ phòng điều khiển như là một món quà lưu niệm. Chúng tôi rời khỏi phòng điều khiển và tìm thấy một thang leo nhỏ lên trên cao ít nhất hai tầng. Tôi đã ngần ngại leo lên, Bryce nói rằng cậu ta sẽ leo lên nếu tôi leo lên trước. Cái thang lắc lư hai bên khi tôi trèo trên những thanh ngang một cách sợ sệt. Cuối cùng, tôi bám được đến nóc toà nhà rồi kéo bản thân mình lên. “Cậu sẽ ổn nếu cậu leo chậm,” tôi la xuống. Không lâu sau cậu ấy đã cùng tôi ở trên nóc và nhìn ra thế giới bao la.

Những ngọn đồi xanh trải dài vô tận dẫn đến những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng. Tôi quay lại và nhìn về phía sau chúng tôi. Nhận ra được ngọn đồi ở sau chúng tôi còn cao hơn cả nhà máy. Nếu chúng tôi có thể đến được ngọn đồi ấy trước khi mặt trời lặn, những bức ảnh sẽ rất tuyệt vời. Tôi thật sự, thật sự, ước rằng tôi đã từ bỏ ý định ấy, nhưng ngược lại, chúng tôi đã nhanh chóng trèo xuống và đi xuống những dãy thang trở lại tầng trệt. Chúng tôi nhanh chóng leo ra khỏi cửa sổ và bò chui qua rào. Chúng tôi đã bước qua những cánh đồng xanh bát ngát và lên ngọn đồi xanh ấy. Tôi không nói dối, tôi đã mệt nhoài khi leo lên ngọn đồi ấy, chạy đua với mặt trời. Khi đến nơi, điều ấy hoàn toàn xứng đáng. Nhà máy, những ngọn núi, và nắng hoàng hôn hoà vào nhau thành một bức tranh phong cảnh này. Tôi lấy tripod ra và canh bố cục. Khi tôi có thể chụp được bức ảnh ấy, tôi đã chụp tận chín mười lần, để chắc chắn là tôi có được nó.

Thật tuyệt vời, nhưng nếu tôi có thể, tôi sẽ quay lại thời gian và rời khỏi ngọn đồi ấy ngay lập tức, nhưng không may, Bryce đã nhìn ra đằng sau, rồi chỉ ra một toà nhà bị bỏ hoang khác. Toà nhà này nhỏ hơn, được xây bằng gạch ống thay vì bằt thép. Cậu ấy đã ngại đi xuống để xem vì cũng đã bắt đầu trễ. Tôi đã trấn an cậu ấy rằng chúng tôi sẽ ổn với đèn pin và sẽ không mất quá lâu. Chúng tôi đã đi xuống mặt bên kia của ngọn đồi và tiến đến toà nhà bằng gạch đổ nát kia. Khi chúng tôi đến nơi, trời đã tối, nhưng đèn pin của chúng tôi vẫn hoạt động tốt. Thứ kỳ lạ duy nhất là khi chúng tôi tiến đến gần toà nhà, cổng không bị khoá, như thể chúng không cố ngăn người ngoài đi vào. Tôi đoán là vì nơi này khó tìm, thế nhưng vẫn lạ. Chúng tôi đi qua cánh cổng, trong khi tôi đang nhìn xung quanh để tìm những cảm biến chuyển động và những thiết bị báo động, nhưng không thấy gì. Điều tương tự khi chúng tôi đến cửa trước, không có khoá, không có nắm cửa, không có gì. Chúng tôi đã cố mở cánh cửa sắt, nhưng nó quá nặng, khó cho bất kì ai trong chúng tôi di chuyển được nó.

Chúng tôi đã bước vào toà nhà và trong ấy rất tối, siêu tối. Tôi ngay lập tức phải bật đèn pin lên để có thể thấy đường. Toà nhà này giống hệt toà nhà chúng tôi đã ở trước đây, những sảnh catwalk hẹp, máy móc, và có bầu không khí và kiểu bố trí tương tự. Nhưng ở trước chúng tôi là một cửa tròn lớn. Giống như một lối vào hầm chứa ngân hàng hơn là một cánh cửa bình thường bạn hay gặp. Trong lúc này, tôi bắt đầu thấy lạ vì chưa hề thấy một thiết bị báo động hay cảm ứng chuyển động nào. Chúng tôi ngay lập tức bị thu hút bởi cánh cửa hầm ấy, tôi đặt tay lên và chiêm ngưỡng nó trong kinh ngạc, tôi chưa bao giờ thấy thứ gì như vậy trong tất cả những nơi tôi đã từng thám hiểm. Cánh cửa này đã được hé mở, không mở hết, nhưng chắc chắn là không đóng kín. Tôi đưa bàn tay vào giữ cánh cửa và tường để cố bẩy cửa ra.

Nó chậm rãi mở ra và chúng tôi đã thấy bên trong, một đường hầm tròn dễn đến một phòng khác. Bây giờ, đây có vẻ như là một trong những khám phá hấp dẫn nhất đối với tôi. Tôi đã chụp nhiều ảnh vào lối sảnh ấy, ánh đèn flash rọi sáng cả khu vực. Chúng tôi chậm bước theo lối sãnh, đèn flash trên tay khi chúng tôi đã đến phòng ở cuối đường. Ở cuối hành lang là một cửa hầm khác được được mở hoàn toàn. Chúng tôi bước vào căn phòng ở phía sau cánh cửa hầm ấy. Căn phòng ấy trống rỗng, ngoại trừ một cửa sập dẫn xuống dưới lòng đất, cánh cửa này đã đóng, nhưng khoá và xích đã bị phá. Bên trên là hình mũi tên chỉ xuống cửa và có nội dung, “Projekt Nacht Wolfin.” Lúc bấy giờ tôi không hiểu đó có nghĩa là gì, tôi còn không màn dành một giây để sử dụng google dịch. Cho đến ngày nay, cụm từ ấy làm tôi lạnh cả sống lưng, “Dự Án Sói Đêm.” Một cụm từ tuy không có nghĩa đặc biệt gì cả, nhưng nếu bạn thấy những gì tôi đã thấy, bạn sẽ không thể nghe cụm từ ấy mà không rùng mình.

Tôi chậm rãi mở cửa, bản lề kêu cót két. Tôi đã rọi đèn xuống để nhìn thấy một dãy thang bình thường. Chúng tôi bắt đầu leo thang xuống dưới, khi gần đến được bên dưới, bạn có thể nghe thấy tiếng những giọt nước rơi xuống đất và tạo ra những tiếng vang trong sự yên tĩnh. Tôi đi đầu tiên, trước Bryce nên tôi đã nhìn thấy đầu tiên. Một căn phòng đen như mực, với khoảng hai inch nước bao phủ trên toàn bộ sàn nhà lọt vào tầm mắt của tôi. Thứ làm tôi sợ chính là những bộ xương thú vật đã được chất thành đống và vương vãi trên sàn nước, những con thú nhỏ đã bị đứt lìa và những con cừu đã bị xé nát. Một số chỉ còn là những bộ xương, nhưng vẫn còn những xác khác đang phân huỷ, thịt thối rữa, nhưng trông chúng như thể đã bị xé toạt ra, một số bị xé ra làm hai một cách hoàn hảo. Tôi gặp khó khăn để nén cơn nôn mửa của mình khi mùi hôi thối đến được với tôi. Tôi đã bắn những tia đèn flash để chụp hình xung quanh khi phát hiện ra một cánh cửa khác ở trước mặt chúng tôi. Tôi nhớ Bryce đã bảo rằng chúng tôi nên rời khỏi nhưng tôi muốn đi đến cửa cuối cùng ấy. Đó là một căn phòng xi măng, với những cột đá xung quanh phòng nhưng một số trông có vẻ như sắp đổ sập rồi. Chúng tôi cuối cùng cũng đến được cánh cửa và tôi đã mở nó. Và sau cửa giống như một phòng điều khiển khác, như phòng ở trong nhà máy kia. Thứ khác biệt giữa hai phòng chính là những thiết bị và tường có đầy chữ Vạn. Không như những hình vẽ xịt sơn của mấy đứa nhóc, mà là những biểu tượng thật. Như thể nơi này chưa từng được chạm đến từ sau Thế Chiến Thứ Hai vậy.

Tôi nhìn xung quanh những nút bấm và đồ vật và tìm thấy một bản nhật ký. Tôi mở quyển nhật ký và không ngạc nhiên cho lắm, nó được viết bằng tiếng Đức. Tôi đã nhét quyển nhật ký vào túi để mang về. Ngay sau đó tôi nghe tiếng kính vỡ, không như một người nào đó đã làm rơi một ly rượu, nhưng như một cửa sổ bị đập vỡ hoàn toàn. Tôi lập tức tắt đèn pin của mình và Bryce đóng sầm cửa lại. Chúng tôi cùng ngồi xuống thở thật khẽ, cả hai đều không muốn biết tiếng động ấy là gì. Những luồn suy nghĩ tràn vào tâm trí tôi, có thể là một con chim, một con sư tử núi, nhưng hai cả hai trường hợp ấy đều không thể xảy ra được. Chúng tôi ngồi trong phòng ấy hơn cả phút cho đến khi tôi quyết định đấy chỉ là do căn phòng quá cũ. Một số lỗi công trình hay sắt mục nát đã tạo ra tiếng ấy. Tôi tập trung đủ lòng gan dạ để có thể rời khỏi nơi này. Bryce nói rằng cậu ta sẽ theo tôi nếu tôi mở cửa và đi trước. Tôi hướng đến cửa, vẫn còn trong tư thế ngồi, và kéo tay nắm cửa. Chầm chậm hé cửa mở như thể chúng tôi đang ở trong một bộ phim kinh dị, đèn pin của tôi đã hết điện.

Tôi đã quá quyết tâm để trở về lúc ấy, nên tôi đã làm một điều duy nhất tôi có thể nghĩ đến. Tôi đã chộp lấy máy ảnh của mình và bắn những ánh đèn flash một cách mù quáng, tôi chỉ có thể làm điều ấy mỗi ba giây nhưng tôi đã có thể chầm chậm tiết sâu vào căn phòng. Và đó là khi tôi thấy được nó, trông như một bóng đen đang ngồi trên đất. Nhưng cách tôi khoảng mười bước chân là một con vật đen bóng, như bộ xương. Nó chầm chậm đứng dậy, tạo ra những tiếng răng rắc và tiếng lộp rộp, các chi của nó rụt tới lui ở các khớp như thể chúng đang bị gãy. Cuối cùng khi nó đứng lên hoàn toàn, tôi đã thấy bộ răng lởm chởm, sắc như dao cạo, và gương mặt có một vết sẹo lớn của nó. Nó cao ít nhất chín feet với cái đầu gần như chạm được đến trần. Nó đang kẹp xác một con cáo trong cánh tay dài lêu nghêu của nó. Nó đã xé con cáo ấy ra làm hai và phát ra một tiếng thét kinh khủng chói tai. Đèn flash của tôi đã ngừng hoạt động, tôi nhìn xuống máy ảnh của mình chỉ để đọc được thông điệp “Sd card full.” Tôi nhanh chóng lấy một thẻ mới từ trong túi mình ra và đổi vào máy ảnh. Nhưng khi tôi chụp flash lại thì con vật ấy đã biến mất, phải chi tôi đã nghĩ đến điều ấy. Tôi cảm thấy bị tê liệt khi đột nhiên nó bóp chặt cổ tôi. Tay nó có cảm giác ươn ướt và sắc nhọn khi nó kéo tôi về phía nó. Bryce nhanh chóng chạy về phía cửa, và tôi không trách cậu ấy. Tôi đã hoảng sợ, không còn suy nghĩ sáng suốt nào trong tâm trí nữa ngoại trừ một thứ duy nhất, sống còn. Khi tôi đang dần bị đưa đến gần mặt nó hơn, tôi nắm lấy dao xếp từ trong túi phải của mình và đâm thẳng vào cổ con quái vật. Nó đã bỏ tôi xuống và thét lớn.

Camera của tôi bị đập xuống đất và tôi cảm thấy Bryce kéo tay tôi đứng dậy. Chúng tôi chạy thẳng đến cửa và đóng sầm lại ở phía sau chúng tôi. Chúng tôi đã nghe thấy tiếng thét của nó trong khi chạy lên trên những bậc thang.

Sau khi leo thang trở lại cửa sập ở tầng trệt, tôi đã quấn dây xích lại quanh ống khoá, với hy vọng sẽ cho chúng tôi thêm chút thời gian. Sau đó, chúng tôi chạy một mạch về xe. Trời lúc này tối đen như mực, nên chúng tôi đã lái xe thẳng đi mà không ngoảnh nhìn lại một giây nào. Đó là một chuyến xe im lặng trở về sân bay. Chúng tôi đã mua vé về sớm đêm ấy, và đã không đề cập về bất kì chuyện gì đã xảy ra cho đến khi đã về đến nhà.

Tôi đã không rời khỏi phòng mình trong suốt kỳ nghỉ đông ấy. Nếu không có những bức ảnh và quyển nhật ký, tôi có lẽ đã nghĩ mình đã mơ rồi. Nhưng không, trong những bức ảnh ấy là con quái vật gớm ghiếc chính xác như khi tôi đã nhìn thấy nó. Tôi rất hài lòng vì đã thay thẻ nhớ nếu không thì tôi cũng không còn hình ảnh của nó rồi. Tôi sẽ không đăng những bức ảnh ấy đâu (phần lớn là vì tôi không muốn người khác tìm ra nơi này và phạm phải sai lầm như tôi) nhưng tôi sẽ đăng phần nội dung nhật ký mà tôi đã có thể dịch, phần lớn thì rất khó đọc, nhưng tôi vẫn có thể dịch được một chút.

“Vật thí nghiệm của chúng ta không trở nên tốt hơn, nó đã trở nên bạo lực hơn, không còn muốn ăn thỏ, nhưng chỉ muốn xé chúng ra. Không ai ở đây còn dám vào trong lồng với nó nữa bởi vì sự thật rằng nó có thú vui phá huỷ động vật. Và tiếng thét, tôi sẽ không quên tiếng thét của nó cho đến ngày tôi chết. – Tháng 3 ngày 24, 1942.”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *